thầu quốc tế nhằm giải quyết sớm khoản nợ xấu để thu hồi tiền mặt. Bán lô lớn thường dựa trên giá cố định của các lô tài sản.
Với những cố gắng và nỗ lực của KAMCO, tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Hàn Quốc giảm mạnh. Tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực ngân hàng giảm từ 18% vào tháng 3/1998 xuống còn 2,3% năm 2002. Thành quả này chủ yếu nhờ vào những nỗ lực liên tục của các tổ chức nhằm xử lý các khoản nợ xấu thông qua việc bán nợ xấu cho KAMCO, phát hành ABS, tích cực xoá nợ và tăng thu nợ.
2.4.1.2. Kinh nghiệm quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại Trung Quốc
Với hệ thống NHTM có qui mô rất lớn và tổng dư nợ cho vay nền kinh tế lên đến gần 2.000 tỷ USD, gấp 1,5 lần GDP, vào những năm 90, tổng khối lượng nợ xấu tại các NHTM Trung Quốc khoảng 480 tỷ USD (Bằng 36%GDP). Nếu xét về con số tuyệt đối thì khối lượng nợ xấu này tương đương với khối lượng nợ xấu của Mỹ vào năm 1989, nhưng tỷ lệ nợ xấu so với GDP lại lớn hơn gấp 5 lần. Trong đó, tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà nước luôn cao hơn mức cho phép. Nếu như trong năm 1995, tỷ lệ nợ xấu mới là 21,4% thì đến cuối năm 2000 tỷ lệ nợ xấu đã lên đến 29%. Năm 2002, mặc dù các NHTM nhà nước Trung Quốc đã có nhiều cố gắng nhằm giảm bớt sự gia tăng nợ xấu nhưng tỷ lệ nợ xấu vẫn ở mức 15,4%, cao hơn nhiều so với mức cho phép của quốc tế.
Để quản lý các khoản nợ xấu NHTM Trung Quốc đã áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ. Đó là:
Thứ nhất, kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện phân loại các nhóm nợ và trích lập dự phòng.
Năm 2002, PBC đã ban hành Hướng dẫn trích lập dự phòng tổn thất cho vay và Công văn Zhong yin xian (2005) số 463, yêu cầu các NHTM kiểm tra định kỳ đối với các loại tài sản dựa trên nguyên tắc thận trọng, dự kiến một cách hợp lý các khoản tài sản có khả năng phát sinh tổn thất và tiến hành trích lập dự phòng giảm giá tài sản đối với các khoản tài sản có khả năng phát sinh tổn thất như dự phòng tổn thất cho vay... Việc trích lập dự phòng tổn thất cho vay bao gồm: dự phòng chung và dự phòng cụ thể.
- Dự phòng chung được trích hàng tháng và được xác định bằng 1% trên số dư cuối kỳ của các khoản tín dụng.
- Dự phòng cụ thể: vào cuối tháng dựa trên kết quả phân loại nợ và sau khi khấu trừ giá trị tài sản thế chấp, NHTM trích lập dự phòng cụ thể theo số dư các khoản tín
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 6
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Nợ Xấu Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các Chỉ Tiêu Chủ Yếu Đánh Giá Công Tác Quản Lý Nợ Xấu Của Ngân Hàng Thương Mại
- Tổng Tài Sản Của Các Ngân Hàng Thương Mại Và Công Ty Tài Chính Ở Thái Lan Vào Tháng 6/1997 Và Tháng 12/2006
- Cơ Cấu Tổ Chức Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Số Lượng Chi Nhánh, Pgd Và Atm Của Các Nhtm Việt Nam Năm 2014
Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.
dụng tương ứng với tỷ lệ như sau: Nhóm 1: 0%; Nhóm 2: 2%; Nhóm 3: 25%; Nhóm 4:
50%; Nhóm 5: 100%.
Thứ hai, tăng cường hoạt động của các công ty quản lý tài sản (AMC).
Trước yêu cầu của việc xử lý nợ xấu, Trung Quốc đã thành lập 4 công ty quản lý tài sản trực thuộc 4 NHTM nhà nước để xử lý nợ xấu. Mỗi AMC có trách nhiệm xử lý nợ xấu cho một NHTM quốc doanh. Tổ chức AMC đầu tiên có tên là Cinda, trực thuộc ngân hàng xây dựng Trung Quốc (CCB) có nhiệm vụ thanh lý 200 tỷ NDT (tương đương 24.1 tỷ USD) nợ khó đòi của ngân hàng này. Ba tổ chức AMC khác, Huarong, Great Wall, và Orient có nhiệm vụ thanh lý nợ khó đòi của 3 NHTM quốc doanh khác là ngân hàng công thương Trung Quốc, Ngân hàng Trung Quốc và Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc.
Được thành lập theo mô hình của Tổ chức Resolution Trust and Corporation (RTC) của Mỹ, các tổ chức AMC của Trung Quốc có một nhiệm vụ lớn: “dọn dẹp” các khoản nợ khó đòi làm trong sạch bảng cân đối tài sản của các NHTM.
Về nhân lực, đội ngũ nhân viên của các tổ chức AMC chủ yếu là từ các ngân hàng mẹ chuyển sang. Về vốn, chúng được chính phủ cấp cho một khoản vốn ban đầu để hoạt động (Bộ Tài chính cấp 10 tỷ CNY, tương đương 1,2 tỷ đô la, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc cấp 500 tỷ CNY), còn lại là phát hành 800 tỷ CNY trái phiếu cho các ngân hàng để thu hút vốn hoạt động.
Các tổ chức này có thể khởi xướng thanh lý tài sản, hoán đổi nợ sang cổ phần, tổ chức đấu giá các khoản nợ, và kể cả tham gia trực tiếp vào quản lý các doanh nghiệp có nợ của họ. Tuy nhiên, chỉ có các khoản nợ trước năm 1996 mới thuộc phạm vi quản lý của họ.
Tuy nhiên, theo các nhà phân tích thì hiệu quả xử lý các khoản nợ của các AMC là vấn đề phải xem xét. Các AMC mới chỉ tìm cách bán đi được một phần những khoản nợ tốt nhất trong số những khoản nợ xấu có trong tay, vẫn còn lại tới 95% số nợ phải thanh lý, trong khi không có mấy khách hàng mới tìm đến. Năm 2004, tức năm sau khi thành lập, các AMC này mới bán được chưa đến một nửa trong tổng số 169 tỷ đô la nợ khó đòi của “tứ đại” NHTM quốc doanh nói trên, thu về được có 12 tỷ đô la trong khi giá trị danh nghĩa của những khoản nợ được thanh lý là 73 tỷ đô la. Bên cạnh đó, Huarong Asset Management, là tổ chức AMC chịu trách nhiệm thanh lý nợ khó đòi
cho Ngân hàng Công thương Trung Quốc, không có chút quyền lực nào trong việc quyết định bán nợ. Các khoản nợ xấu được chuyển ra khỏi ngân hàng này cho các AMC theo nguyên giá, mặc dù người ta thừa biết rằng giá trị thực của các khoản nợ này thấp xa so với giá gốc, và được đưa ra bán đấu giá, tức là chấp nhận mất mát lớn. Chúng sẽ bị bán với mức chiết khấu lớn, đối với một số khoản lên tới 90% giá gốc. Phần thu được sẽ được nộp vào ngân khố nhà nước.
Ngoài ra, hoạt động của các AMC còn có các bất cập như: Thứ nhất, AMC không được quyền quyết định giá đầu thấu các khoản nợ khó đòi, Bộ Tài chính là tổ chức ra quyết định cuối cùng; Thứ hai, những tài sản quản lý được chuyển nhượng từ ngân hàng sang AMC theo giá danh nghĩa ở Trung Quốc. Thứ ba, trong số 1,4 nghìn tỷ CNY nợ khó đòi cần chuyển nhượng, có khoảng 400 tỷ CNY là các khoản hoán đổi nợ lấy cổ phần và tỷ lệ thu hồi nợ từ các khoản này là rất thấp, chỉ vào khoảng 32%, là mức rất thấp so với chuẩn quốc tế.
Mặt khác, các AMC sẽ gặp khó khăn trong vấn đề chi trả gốc và lãi cho khối lượng trái phiếu đã phát hành, vì nếu chỉ đưa vào doanh số thanh lý các khoản nợ khó đòi thì không đủ. Bộ Tài chính sẽ phải móc hầu bao và/hoặc chịu tổn thất. Như vậy không có gì quá lời khi nói rằng Chính phủ chẳng qua chỉ chuyển tiền từ túi này sang túi khác.
Bên cạnh các khoản nợ chuyển giao cho các AMC, các NHTM quốc doanh Trung Quốc vẫn còn một khối lượng nợ xấu rất lớn (245 tỷ USD vào cuối năm 2002). Họ cũng đã có nỗ lực tự xử lý. Năm 2003 đã xử lý nợ xấu giảm 13 tỷ USD (còn 232 tỷ USD). Thực ra khoản nợ được xử lý chủ yếu là việc xoá các khoản nợ không còn khả năng thu hồi. Dù thành lập các AMC và để cho các ngân hàng tự xử lý, nhưng Trung Quốc vẫn đang gặp khó khăn trong việc xử lý các khoản nợ xấu. Vấn đề là ở chỗ Trung Quốc chưa xác định rõ được con nợ thực sự của các khoản nợ xấu này và chưa tạo ra nỗ lực trả nợ của các con nợ. Với những đặc điểm trên, mô hình xử lý nợ xấu của Trung Quốc được xem là một sự kết hợp của hai loại hình xử lý nợ tập trung và phi tập trung.
2.4.1.3. Kinh nghiệm quản lý nợ xấu của NHTM Thái Lan
Thái Lan là một quốc gia có hệ thống tài chính ngân hàng có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam và kinh nghiệm quản lý nợ xấu của các NHTM rất đáng quý đối với NHTM Việt Nam.
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ nợ xấu (% / tổng dư nợ) của hệ thống Ngân hàng Thái Lan (giai đoạn 2005 - 2011)
Nguồn: Ngân hàng Trung ương Thái Lan (BoT)
Biểu đồ trên cho thấy trong giai đoạn từ 2005 - 2010, nợ xấu của các NHTM Thái Lan rất cao. Tuy nhiên, bằng việc kết hợp các giải pháp khác nhau mà các NHTM Thái Lan đã bước ra khỏi cuộc khủng hoảng nợ xấu, ổn định hệ thống. Cụ thể:
Một là, tăng vốn tự có của các NHTM bằng các biện pháp khác nhau hoặc sử dụng công quỹ vào việc tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng. Thái Lan đã lập Quỹ phát triển các định chế tài chính (FIDF) với số vốn khoảng hơn 300 tỷ baht để cấp vốn và tái cấp vốn cho các NHTM thiếu vốn theo hai phương án. Một là, Chính phủ sẽ mua lại cổ phần của các ngân hàng có vấn đề về tài chính nếu ngân hàng này chịu áp dụng một cách nghiêm ngặt những quy định về kế toán, mức dự phòng và về vốn từ phía Chính phủ. Hai là, Chính phủ Thái Lan thực hiện biện pháp tái cấp vốn cho các ngân hàng bằng cách nắm giữ một khoản nợ nhất định của ngân hàng nhằm tăng cường lại khả năng tài chính cho các ngân hàng, làm cho các ngân hàng đáp ứng được yêu cầu về lành mạnh vốn. Cho đến hết năm 2000, Thái Lan cũng đã hoàn tất việc tái cấp vốn cho các ngân hàng tư nhân với khoảng 9 tỷ USD và khoảng 11 tỷ USD cho các ngân hàng nhà nước. Ngoài hai phương án này của Chính phủ, nhiều ngân hàng còn chủ động phát hành cổ phiếu mới cho các nhà đầu tư tư nhân như
Bangkok Bank và Thai Farmers Bank do không muốn có sự can thiệp của nhà nước trong hoạt động kinh doanh của mình về sau. Các cổ phiếu mới bị ràng buộc chặt chẽ với các món nợ cố hữu đồng thời phải có lãi suất đủ cao để hấp dẫn người gửi tiền. Để đáp ứng các điều kiện như vậy, nhiệm vụ cải cách hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng Thái Lan vốn hết sức nặng nề lại càng nặng nề thêm bởi các sức ép chính trị - xã hội tác động lên các quyết định cải cách.
Hai là, quản lý nợ, cơ cấu lại nợ và quản lý tài sản.
Thái Lan thực hiện xử lý nợ xấu bằng 03 giải pháp cơ bản bao gồm bơm vốn trực tiếp, công ty quản lý tài sản AMC và Ủy ban tư vấn tái cơ cấu nợ CDRAC (Corporation Debt Restructuring Advisory Committee) trong đó AMC là một trong những giải pháp mà Thái Lan đã áp dụng khá hiệu quả từ thời kỳ khủng hoảng cho đến nay. CDRAC được thành lập vào tháng 6/1998 nhằm hỗ trợ cho việc tái cơ cấu doanh nghiệp. Mô hình này có nguồn gốc từ Anh, được gọi là phương thức Luân Đôn, NHTW Thái Lan đã hướng dẫn tỉ mỉ phương pháp này vào tháng 4/1998 để các NHTM thực hiện và có sửa đổi vào tháng 3/1999. Dưới sức ép của IMF, Thái Lan đã phải xây dựng một Luật để có hành lang pháp lý cao hơn. Theo đó, yêu cầu chủ nợ là ngân hàng và con nợ phải ký kết với nhau và về phía Nhà nước, phải lập ra một Ủy ban tư vấn tái cơ cấu nợ (viết tắt là CDRAC), do NHTW Thái Lan đảm nhiệm. Bước tiếp cận mới này yêu cầu bên nợ phải cung cấp thông tin đầy đủ cho bên cho vay và phải có thái độ rõ ràng trong một thời gian sớm nhất để biết họ có khả năng tài chính trả nợ hay không. Tiếp đó là ngân hàng cam kết giúp đỡ bên đi vay duy trì hoạt động để có nguồn trả nợ. CDRAC có quyền xem xét việc thương thuyết giữa ngân hàng và bên đi vay, đồng thời đưa ra yêu cầu mà hai bên phải thực hiện. Ngân hàng và khách hàng phải ngồi lại với nhau để bàn bạc chi tiết và tìm ra cách thức xử lý nợ. Thực chất của phương thức này là sử dụng công cụ thương thuyết giữa chủ nợ và bên đi vay. Tìm ra công cụ thương thuyết là một sáng kiến có tác dụng trong nhiều trường hợp khi các khách hàng gặp khó khăn tạm thời, hoặc có tiềm lực xử lý trong tương lai thì mới đem lại hiệu quả. Đến nay, ở Thái Lan, nhiều ngân hàng không áp dụng phương pháp này mà hướng sang áp dụng phương pháp thông qua công ty quản lý tài sản AMC.
Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Thái Lan dựa trên các AMC có thể chia thành 02 thời kỳ: phân tán và tập trung, trong đó mô hình phân tán có sự tham gia của cả AMC
sở hữu nhà nước (hỗ trợ bởi Quỹ Phát triển các Định chế tài chính-FIDF) và các AMC sở hữu bởi ngân hàng tư nhân được áp dụng lần lượt năm 1998 và 1999; còn mô hình AMC tập trung dựa trên sự thành lập của Công ty quản lý tài sản Thái Lan (Thai Asset Management Corporation - TAMC) vào năm 2001. Ba cơ chế AMC có nhiều điểm khác nhau ở nguồn gốc tổ chức, điều khoản và điều kiện các tài sản chuyển giao. Và Thái Lan chỉ thực sự giải quyết nợ xấu thành công theo mô hình AMC tập trung áp dụng vào giai đoạn sau khủng hoảng.
Tháng 6/2001, Thái Lan thành lập một công ty quản lý tài sản tập trung có tên Thai Asset Management Corporation (TAMC) với cơ chế hoạt động khá hệ thống. TAMC hoạt động dựa trên cơ sở pháp lý là Nghị định TAMC (TAMC Emergency Decree B.E. 2544) với mục đích duy nhất là xử lý triệt để vấn đề nợ xấu cho tất cả các TCTD. Hội đồng thành viên của TAMC bao gồm Ủy ban kiểm toán và các thành viên bên ngoài. Nguồn vốn hoạt động của TAMC chủ yếu từ phát hành trái phiếu chiếm 96%, còn lại 0,4% là hỗ trợ từ Chính phủ. TAMC thực hiện phát hành trái phiếu có thời hạn 10 năm với sự đảm bảo của FIDF để mua nợ xấu. Tài sản được chuyển giao sẽ định giá theo giá trị tài sản bảo đảm. Việc xử lý nợ xấu sẽ dựa trên nguyên tắc chia sẻ lời - lỗ giữa TAMC và các TCTD bán nợ. Nếu nợ xấu có thể sinh lời thì ngân hàng bán nợ sẽ được hưởng 80% phần lợi nhuận, còn nếu nợ xấu tạo lỗ thì ngân hàng đó sẽ phải chịu 20% khoản lỗ ấy. TAMC tiếp nhận các khoản nợ còn tồn đọng từ các ngân hàng tư nhân và các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước mà chính các ngân hàng đó hoặc công ty quản lý tài sản của những ngân hàng này không thể xử lý được. Hầu hết nợ xấu của các ngân hàng chuyển sang TAMC quản lý xuất phát từ các doanh nghiệp bất động sản và sản xuất. Đối với các khoản vay có thế chấp không còn khả năng trả nợ, TAMC thực hiện tịch thu tài sản thế chấp và bán thanh lý để hoàn phần vốn vay dựa trên nguyên tắc chia sẻ lời-lỗ. Đối với các khoản vay mà TAMC nhận thấy còn khả năng trả nợ, TAMC đã chủ động phối hợp với các cơ quan đại diện cho các khu vực kinh tế để đưa ra các giải pháp khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu vực đó, tạo nguồn vốn trả nợ. Đối với các khoản vay thuộc ngành bất động sản: TAMC đã phối hợp chặt chẽ với Cơ quan Nhà ở Quốc Gia (National Housing Authority) để chọn lọc các dự án còn nhiều tiềm năng và cơ quan này sẽ hỗ trợ phát triển và quản lý bán dự án; riêng vấn đề nguồn vốn đầu tư cho dự án, TAMC làm việc với hai TCTD là BankThai và Ngân hàng Tiết kiệm
Chính phủ (Government Saving Bank) để cung cấp tài chính cho các dự án trên phát triển, hoàn thiện và bán ra thị trường trong thời gian ngắn nhất có thể. Đối với các khoản nợ trong khu vực sản xuất: TAMC tập trung giải quyết vấn đề nợ xấu của 13 nhóm mục tiêu của Chính phủ, trong đó đặt trọng tâm vào các ngành thiết yếu phát triển kinh tế cũng như mang lại những cơ hội việc làm và giá trị kinh tế cao. Phương thức xử lý của TAMC có hiệu lực và hiệu quả cao vì tập hợp được tất cả các khoản nợ khó đòi còn tồn đọng vào một tổ chức có quyền lực cao xử lý, giải quyết được khó khăn khi xử lý các khoản nợ cho vay hợp vốn có nhiều chủ nợ, tập hợp được các chuyên gia giỏi và kinh nghiệm, xóa được nợ khó đòi khỏi sổ sách của ngân hàng. Trong khi AMC phân tán hầu như chỉ xử lý được nợ xấu với tỷ lệ rất nhỏ thì với AMC tập trung, tính đến tháng 6/2003, số nợ xấu được TAMC giải quyết là 784,4 tỷ Baht, đạt 73,46% tổng số nợ cần xử lý. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Thái Lan giảm rõ rệt từ 42.9% vào năm 1998 xuống 12,9% năm 2003, 10% năm 2004 và tiếp tục giảm dần ở mức ổn định qua các quý từ năm 2005 đến nay. Đây thực sự là một bài học hữu ích cho Việt Nam trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh nợ xấu đang dần leo thang.
Ba là, áp dụng các Chính sách thuế đối với tổ chức xử lý nợ khó đòi. AMC của Thái Lan đã dành cho các doanh nghiệp những khuyến khích thuế nhằm giúp họ nhanh chóng tạo dựng lại sản nghiệp trên các khoản vay không sinh lãi. Có rất nhiều loại thuế, phí được áp dụng đối với các khoản vay không sinh lãi đã được cơ cấu lại như: thuế thu nhập, thuế kinh doanh, thuế VAT, phí đăng ký kinh doanh. Các NHTM được miễn thuế kinh doanh đối với các khoản thu có nguồn gốc từ thanh lý tài sản hoặc từ mua lại các khoản vay không sinh lãi. Các AMC được phép nộp thuế thu nhập 2 lần/năm. Ngoài ra, công ty bán tài sản để trả nợ ngân hàng cũng không bị đánh thuế. Công ty phải chuyển quyền sở hữu tài sản thì sẽ được giảm thuế từ 2% xuống còn 0.01%...Tất cả những khuyến khích thuế này chỉ kéo dài đến ngày 21-12-2000.
Bốn là, các ngân hàng được khuyến khích tìm kiếm đối tác nước ngoài nếu không tìm được đủ nguồn vốn trong nước. Năm 1998, Chính phủ Thái Lan đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 100% cổ phần của ngân hàng địa phương thời hạn 10 năm, sau thời gian đó thì phải giảm tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư xuống theo mức pháp luật quy định thông qua việc bán lại cho các cổ đông trong nước. Theo đó, ngân hàng Standard Chartered của Anh đã mua lại Ngân hàng Nakornthon và ABN
Amro của Hà Lan cũng mua lại Bank of Asia. Việc cho đầu tư nước ngoài cùng tham gia vào tư nhân hoá một bộ phận ngân hàng ở Thái Lan đã tạo ra sân chơi thông thoáng và thúc đẩy cạnh tranh mạnh mẽ hơn trong khu vực tài chính ngân hàng.
Năm là, tiến hành củng cố khuôn khổ quy định quản lý
Những yếu kém đã bộc lộ như tính không minh bạch, khả năng quản lý và đánh giá chất lượng tín dụng quá kém, hiệu suất kinh doanh thấp do công nghệ ngân hàng quá lạc hâu, do trình độ chuyên môn thấp kém của các nhân viên, do mô hình cũng như cung cách quản lý lỗi thời. Do đó, việc đưa ra các quy định chặt chẽ hơn là hết sức quan trọng đối với việc cải thiện điều tiết tài chính. Thái Lan đã không ngừng nâng cao mức quy định về tỷ lệ an toàn vốn đối với các ngân hàng thương mại lên mức 8.5%. Thái Lan đã áp dụng phương pháp phân loại nợ khắt khe hơn và áp dụng quy định dừng lãi lũy kế đối với nợ xấu. Theo đó, số ngày trôi qua trước khi coi là quá hạn giảm từ 360 ngày xuống 90 ngày. Thái Lan còn xây dựng lộ trình rõ ràng để các ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ, đồng thời các yêu cầu về trích lập dự phòng sẽ được gia tăng 6 tháng 1 lần để đảm bảo tiệm cận với các quy định quốc tế vào năm 2000. Ngoài ra, Thái Lan cũng ban hành quy định mới về định giá tài sản đảm bảo cho các khoản vay lớn, theo đó các khoản vay lớn này cần được định giá bởi bên thứ ba độc lập để đảm bảo tính minh bạch trong công tác thẩm định khoản vay. Bên cạnh đó, Chính phủ Thái Lan cũng cố gắng phân tán rủi ro bằng việc quy định về cho vay như hạn mức cho vay đối với một khách hàng không quá 25% vốn tự có, các khoản nợ ngoài bảng tổng kết tài sản hạn chế dưới 50% tổng số vốn, các ngân hàng không được đầu tư quá 20% tổng số vốn vào cổ phiếu, giấy chứng nhận nợ của một công ty, tỷ lệ dự trữ thanh khoản theo quy định là 7% trong đó 2% tiền gửi tại NHTW, tối đa không quá 2.5% tiền mặt, còn lại dưới dạng chứng khoán. Bên cạnh đó, ngân hàng phải thực hiện lập 100% dự phòng đối với những tài sản bị xếp vào loại đáng nghi ngờ và buộc các ngân hàng bị đóng cửa phải tăng vốn điều lệ lên 15% tổng vốn thì mới có thể tiếp tục hoạt động.
Nhờ những biện pháp chủ động chuẩn bị, ứng phó kịp thời và liên tục nên những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến ngành ngân hàngThái Lan đã được giảm thiểu, các rủi ro đã được khống chế, từ đó giúp hệ thống ngân hàng duy trì được sự phát triển ổn định, lành mạnh. Đây là bài học cần tham khảo cho nhiều nước trong khu vực. Sau khủng hoảng, lợi nhuận kinh doanh và lợi nhuận ròng của các ngân hàng Thái Lan đã được cải thiện đáng kể.