Kết Quả Chương Trình Mục Tiêu Về Cổ Phần Hóa Doanh Nghiệp Nhà

công tác QLNN đối với doanh nghiệp. Hoạt động này sẽ diễn ra trong suốt quá trình kể từ lúc doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH đến khi được cơ quan quản lý cấp giấy phép kinh doanh mới và hoạt động theo hình thức CTCP.

Xử lý các vấn đề liên quan đến thực thi chính sách CPH

Thứ nhất, tâm lý lẩn tránh CPH vẫn còn tồn tại trong không ít cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ quản lý và người lao động trong các DNNN cần CPH. Nếu triển khai CPH còn chờ vào tinh thần tự nguyện của doanh nghiệp và cơ quan quản lý thì họ tìm ra rất nhiều lý do để chậm trễ CPH càng lâu càng tốt.

Thứ hai, vướng mắc nhất hiện nay của CPH là khâu định giá DNNN. Thực tế cho thấy, CPH là hoạt động mang tính trao đổi mua bán, trong đó bên bán là Nhà nước do các cấp được ủy quyền khác nhau đại diện và bên mua là các chủ thể đa dạng như cá nhân, pháp nhân, tổ chức xã hội, người trong nước và người nước ngoài... Trong quan hệ mua bán đó, lợi ích của các bên không phải tuyệt đối thống nhất với nhau. Nhà nước muốn bán được giá, nếu bán rẻ thì cán bộ định giá sẽ bị gán cho tội làm thất thoát vốn nhà nước, trong khi người mua muốn mua rẻ để có lợi sau này. Do đó tất yếu giá phải được hai bên chấp nhận qua thỏa thuận và ngày nay đa số dân chúng đều cho rằng cơ chế tạo ra giá thỏa đáng ấy chính là giá thị trường trên cơ sở cung - cầu và cạnh tranh.

Thứ ba, vướng mắc thứ ba là cơ chế chính sách đối với người lao động trong các DNNN cần CPH. Người lao động trong các DNNN gồm hai loại: (1) Cán bộ quản lý do Nhà nước bổ nhiệm; (2) Người lao động ký hợp đồng. Vì cán bộ quản lý DNNN ít nhiều vẫn là một dạng công chức (do Nhà nước bổ nhiệm) nên hầu như còn sự mặc nhận rằng nếu không chuyển được sang CTCP thì Nhà nước phải bố trí công tác ở đâu đó. Do đó nhiều doanh nghiệp trùng trình không CPH được vì chưa có phương án bố trí cán bộ.

Thứ tư, vấn đề phát sinh lớn là môi trường pháp lý chung cho các doanh nghiệp hoạt động đến cơ sở pháp lý cho CPH còn nhiều bất cập, không đồng bộ, cản trở lẫn nhau. Nhiều chính sách mới của Nhà nước có mâu thuẫn với các văn bản pháp lý đã có sẵn hoặc chưa có hướng dẫn cụ thể.

Thứ năm, vướng mắc trong chính công tác chỉ đạo, mặc dù các Chính phủ rất quan tâm chỉ đạo về CPH, nhưng quá trình triển khai trong thực tế lại không tương xứng với sự quan tâm, sát sao đó.

Nguồn tài chính công

Các khoản thu từ CPH DNNN (như tiền bán cổ phần, cổ tức thuộc vốn nhà nước, thanh lý tài sản loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp), chi phí hoạt động của bộ máy quản lý; xử lý lao động dôi dư, tồn tại tài chính, thu từ thoái vốn nhà nước là các hoạt động mang tính chất công mà Nhà nước cần tiến hành để đảm bảo sự cân đối của nền kinh tế. Nhà nước có quyền thu đối với doanh nghiệp vì Nhà nước là chủ thể quản lý, là “người” đứng ra bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, là “người” hỗ trợ khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình hoạt động… và ngược lại, doanh nghiệp sau khi CPH sẽ có hướng phát triển khả quan và hiệu quả hơn.

1.2.3.3. Kết quả chương trình mục tiêu về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

nước


Quản lý nhà nước về cổ phần hóa doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội - 7

Việc đánh giá công tác QLNN về CPH DNNN gồm các nội dung sau:

- Công tác tư tưởng, tuyên truyền, xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách đối

với quá trình CPH DNNN.

- Những kết quả mang tính định lượng như: việc rà soát, phân loại, xây dựng kế hoạch, số lượng các DNNN được CPH.

- Tác động của cổ phần hoá đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá như:

Cổ phần hoá tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, giúp cơ cấu lại doanh nghiệp, huy động thêm vốn, tạo cho doanh nghiệp có chế quản lý năng động hiệu quả;

Chuyển một phần sở hữu nhà nước sang sở hữu hỗn hợp;

Tạo điều kiện để người lao động trở thành người chủ thực sự trong doanh nghiệp;

Thay đổi phương thức quản lý trong doanh nghiệp thực hiện CPH;

- Việc kiểm tra, giám sát quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước;

- Công tác quản lý tài chính công;

- Hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước đối với quá trình CPH DNNN.

1.2.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Đánh giá hiệu quả là một trong những nội dung quan trọng đối với QLNN về CPH; mục đích để xác định kết quả thực hiện QLNN về quá trình này. Do vậy, công tác đánh giá cần xem xét trong mối liên hệ về kết quả đạt được giữa các mục tiêu, chức năng và nội dung QLNN về CPH DNNN. Đồng thời qua đánh giá, xem xét những tác động để rút ra bài học trong quá trình thực hiện.

Từ mối liên hệ trên và vận dụng các tiêu chí đánh giá QLNN của Ngân hàng phát triển Châu Á về Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh (Nxb Chính trị Quốc gia 2011), luận án tổng hợp các tiêu chí đánh giá hiệu quả QLNN về CPH DNNN bao gồm:

1.2.4.1. Tiêu chí cân đối về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình cổ phần hóa

Tiêu chí này đòi hỏi sự cân đối về quyền và nghĩa vụ giữa các DNNN trong diện CPH và người lao động, các cổ đông trong quá trình CPH.

Việc đảm bảo công bằng, lợi ích cho doanh nghiệp, người lao động, các cổ đông và lợi ích chung của nền kinh tế là yếu tố quan trọng thúc đẩy triển khai CPH DNNN, thể hiện qua việc ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn cách thức, phương pháp, trình tự tiến hành CPH; quyền hạn và nghĩa vụ của doanh nghiệp, người lao động và các cổ đông, giúp họ có sự lựa chọn phù hợp trong quá trình mua cổ phiếu và giúp doanh nghiệp hạn chế, phân tán rủi ro.

1.2.4.2. Tiêu chí ổn định về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp lý

Tiêu chí này được biểu hiện qua sự ổn định về định hướng, pháp lý và đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động, các cổ đông và lợi ích chung cho phát triển kinh tế-xã hội. Nhà nước ban hành pháp luật liên quan đến CPH phải cụ thể, rõ ràng, ít điều chỉnh, bổ sung và phải đầy đủ nội dung cần thiết để đảm bảo cho các DNNN triển khai dễ dàng theo quy định.

Việc xây dựng, ban hành các quy định pháp luật, tạo khung pháp lý cần ổn định lâu dài, ít điều chỉnh, bổ sung, đảm bảo công khai, minh bạch thông tin pháp luật cho các DN thực hiện tốt các quy định trong quá trình CPH, góp phần gia tăng tính bền vững của QLNN về CPH.

1.2.4.3. Tiêu chí mức độ tuân thủ pháp luật và hiện thực quyền lực nhà nước

QLNN về CPH DNNN chỉ mức độ tuân thủ pháp luật, chấp hành mọi chỉ đạo từ các cơ quan quản lý về tài chính doanh nghiệp. Đồng thời, biểu hiện mức độ hiện thực quyền lực nhà nước và uy tín của các cơ quan đối với doanh nghiệp trong QLNN về CPH.

Đánh giá mức độ tuân thủ các quy định pháp luật: xem xét mức độ tuân thủ về đối tượng, nguyên tắc, điều kiện và quy trình CPH, phân loại các khoản tồn tại tài chính, lập số liệu kiểm kê hàng tồn kho, đối chiếu công nợ, xác định giá trị doanh nghiệp, tư vấn phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng…

Đánh giá mức độ hiện thực quyền lực nhà nước: mức độ thực hiện việc tổ chức xây dựng và triển khai định hướng phát triển CPH DNNN; mức độ ban hành pháp luật đầy đủ, đồng bộ, kịp thời để tạo điều kiện pháp lý cho CPH; mức độ điều tiết, can thiệp của Nhà nước, can thiệp quá mức hay thiếu sự điều tiết phù hợp; việc kiểm tra, giám sát trong quá trình CPH DNNN.

Nói chung, để QLNN về CPH đạt được kết quả cuối cùng, cần có sự ổn định từ tuân thủ, chấp hành pháp luật, tôn trọng các quy định về đối tượng, nguyên tắc, điều kiện CPH. Tuân thủ các quy định đảm bảo định giá tài sản, xử lý các khoản tồn tại tài chính, xác định các khoản nợ theo quy định của Nhà nước. Qua hướng dẫn của các cơ quan nhà nước sẽ tác động đến nhận thức của các DNNN về lợi ích của việc CPH; giúp các DN CPH gia tăng thu nhập, mở rộng được thị phần SXKD. Với nhận thức đó, các DNNN thuộc diện CPH sẽ chủ động mở rộng hoạt động SXKD theo quy định của pháp luật, thúc đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu DNNN, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về CPH DNNN.

1.2.4.4. Tiêu chí hiệu quả và phù hợp


Hiệu quả là chỉ tiêu phản ánh trình độ khai thác các yếu tố đầu vào để tạo ra kết quả hoạt động tối đa với chi phí tối thiểu, hoặc là chỉ tiêu phản ánh năng suất hoạt động, hiệu suất sử dụng các chi phí đầu vào. Do vậy, có thể hiểu hiệu quả QLNN về CPH DNNN phản ánh kết quả hoạt động với mức tối đa và chi phí ở mức tối thiểu. Hiệu quả QLNN được đánh giá bằng mức độ đạt được của nội dung so với các mục tiêu đặt ra.

Tiêu chí hiệu quả ở đây cần định lượng đối với các DNNN khi CPH thông qua các chỉ tiêu: doanh thu; lợi nhuận sau thuế và tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ

sở hữu; nợ phải trả quá hạn, khả năng thanh toán nợ đến hạn; chấp hành pháp luật về đầu tư, quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp, pháp luật về thuế và các khoản thu nộp ngân sách khác, quy định về chế độ báo cáo tài chính và báo cáo để thực hiện giám sát tài chính; tình hình thực hiện sản phẩm, dịch vụ công cộng. Các tiêu chí nêu trên được xác định và tính toán từ số liệu trong các báo cáo tài chính năm đã được kiểm toán, báo cáo thống kê định kỳ theo quy định của Nhà nước.

Đối với hoạt động giám sát, ngoài việc xử lý nghiêm, cần tiến hành phân tích, đánh giá, tìm ra những hạn chế trong công tác ban hành pháp luật và điều hành của Nhà nước để hiệu chỉnh kịp thời, tạo điều kiện cho quá trình CPH được ổn định.

Tiêu chí phù hợp bao gồm: sự phù hợp của các mục tiêu định hướng; các quy định của pháp luật có nội dung bên trong phù hợp nhau, sự phù hợp giữa luật với các văn bản hướng dẫn thực hiện quá trình cổ phần hóa, sự phù hợp giữa các quy định với thực tế; phù hợp về nội dung, phương thức, hình thức giám sát quá trình CPH DNNN.

Các tiêu chí đánh giá kết quả QLNN về CPH DNNN trên có mối liên hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Quy định pháp luật về CPH chỉ có hiệu lực thi hành khi ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích đã đề ra, nhằm đưa quy định pháp luật đi vào thực tiễn đời sống xã hội; mức độ tuân thủ các quy định pháp luật của DNNN và mức độ hiện thực quyền lực nhà nước, trên cơ sở đảm bảo tiêu chí phù hợp trong QLNN về CPH, giúp đạt được nội dung so với các mục tiêu QLNN về CPH đã đặt ra theo tiêu chí hiệu quả và qua đó đáp ứng được các yêu cầu, sự ổn định về định hướng, pháp lý và đảm bảo sự công bằng, hài hòa lợi ích cho các DN, người lao động, các cổ đông và lợi ích chung cho phát triển kinh tế-xã hội theo hướng bền vững.

1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

1.2.5.1. Nhân tố khách quan

Sự phát triển kinh tế- xã hội và cơ chế chính sách

Sự phát triển kinh tế-xã hội tạo thêm nhu cầu mới cho các DNNN thuộc diện CPH mở rộng hình thức huy động vốn ngoài việc vay ngân hàng như: phát hành cổ phiếu, hợp tác liên doanh, liên kết, vay các quỹ đầu tư. Qua đó, Nhà nước ban hành quy định pháp luật và hướng dẫn thực hiện các hình thức huy động vốn phù hợp với

tình hình phát triển kinh tế-xã hội. Mặt khác, sự phát triển kinh tế-xã hội bền vững sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho QLNN về CPH DNNN phát huy hiệu quả.

Cơ chế chính sách do cơ quan QLNN ban hành nhằm quy định các nội dung cụ thể để cổ phần hóa DNNN. Việc chính sách ban hành có phù hợp với thực tế tại từng thời điểm hay không sẽ có ảnh hưởng tới tiến độ CPH DNNN.

Các văn bản, chính sách do Nhà nước ban hành có ảnh hưởng quan trọng đến tiến trình CPH. Các văn bản, chính sách đồng bộ, thống nhất và hợp lý sẽ có tác động thúc đẩy quá trình CPH DNNN.

Trình độ phát triển của thị trường và quy mô khu vực kinh tế tư nhân

Đối với việc CPH doanh nghiệp, yếu tố thị trường có tác động không nhỏ, vì CTCP phát hành cổ phiếu, đây là một loại hàng hoá đặc biệt, vì vậy giá bán cổ phiếu phải hợp lý thì mới được người lao động và thị trường chấp thuận, giá này vừa phải đảm bảo quyền lợi của Nhà nước, vừa đảm bảo quyền lợi của các cổ đông và người lao động. Khi thị trường tài chính phát triển, tự do hóa các giao dịch vốn sẽ tạo ra nhiều sản phẩm tài chính và các hình thức huy động vốn, từ đó tác động tích cực đến việc nâng cao hiệu quả CPH và sẽ góp phần gia tăng hiệu quả QLNN trong quá trình CPH DNNN.

Khó khăn và cản trở lớn trong quá trình CPH ở nhiều nước là do khu vực tư nhân nhìn chung vẫn còn ở quy mô nhỏ. Điều này phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị trường, trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái CTCP còn xa lạ với nhiều người. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ, lúng túng cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức mua và phát hành cổ phiếu. Do đó làm cho việc tiến hành CPH tại các nước phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát triển hình thái CTCP cũng như xác lập môi trường pháp lý tương ứng.

Nhân tố thay đổi trong bản chất hoạt động kinh doanh

Sau CPH, tính chủ động trong quản lý cũng như mức độ tự quyết của các nhà quản lý doanh nghiệp đã giúp CTCP đạt được mục tiêu lợi nhuận và hiệu quả đã tăng lên đáng kể. Mối quan hệ chặt chẽ giữa trách nhiệm của nhà quản lý và công nhân viên đã làm cho nó dễ dàng hơn trong sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất và nguồn lực của doanh nghiệp. Đây là lý do phần lớn các CTCP thành lập từ CPH nhận thức được rằng

họ phải sử dụng năng lực sản xuất một cách hiệu quả hơn so với trước khi CPH.

Sau CPH, các doanh nghiệp bằng những chính sách đãi ngộ, đào tạo đã nâng tầm kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, văn hóa ứng xử và đạo đức nghề nghiệp cho nguồn nhân lực hiện có, không những giúp tăng thu nhập, khuyến khích vật chất như chế độ tiền thưởng mà còn quan tâm, chú trọng đến công tác bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại, tổ chức tham quan, học tập trong nước và thế giới để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sắp xếp lại tổ chức cho hợp lý, gọn nhẹ và hiệu quả.

Các doanh nghiệp cũng chú trọng đến việc xây dựng hệ thống nội quy, quy chế, thỏa ước lao động tập thể, quy ước văn hóa công sở, các quy chế nội bộ khác đảm bảo yêu cầu đồng bộ nhằm cụ thể hóa các quy định về quản lý, chuyên môn nghiệp vụ, phát huy vai trò, trách nhiệm, tinh thần hăng say lao động của cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp.

1.2.5.2. Nhân tố chủ quan

Lựa chọn công cụ QLNN và hỗ trợ của Nhà nước về CPH DNNN

Lựa chọn công cụ QLNN về CPH phù hợp, sử dụng công cụ pháp luật để điều chỉnh kịp thời, hợp lý trong việc mở rộng hay thu hẹp các hình thức cổ phần hóa nhằm duy trì sự ổn định thường xuyên và lâu dài của quá trình CPH DNNN. Sử dụng công cụ kế hoạch để tác động đến định hướng, nhằm đạt được các mục tiêu QLNN về CPH. Sử dụng công cụ chính sách nhằm điều tiết kịp thời, khuyến khích hay hạn chế việc mở rộng các hình thức, phương thức CPH.

Bên cạnh đó, Nhà nước sử dụng công cụ tài sản quốc gia, chính sách hỗ trợ về mặt bằng đất đai, đầu tư hạ tầng kỹ thuật, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp thông tin, chính sách trợ giúp phát triển các doanh nghiệp sau CPH, hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước tạo điều kiện cho các DNNN trong diện CPH phát triển SXKD, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN.

Nguồn tài chính công và quản trị doanh nghiệp

Nhà nước cần một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến quá trình CPH như các khoản trợ cấp cho người lao động dôi dư do quá trình CPH, chi phí đào tạo lại nghề mới và thời gian tìm việc, các chi phí cho chính sách xã hội và bảo hiểm, chi phí để thực hiện công việc tư vấn, môi giới đầu tư, chi phí phát hành và các dịch vụ về buôn bán cổ phiếu… Những khoản phí tổn này là không thể bỏ qua được và thường khá lớn. Đây là chưa kể đến chính sách bán cổ phiếu giá thấp và

tín dụng cho một số đối tượng nhất định để khuyến khích và thực hiện mục tiêu xã hội

sẽ làm cho chi phí tăng lên nhiều hơn nữa. Thêm vào đó, nạn tham nhũng và hối lộ sẽ lợi dụng cơ hội này để tẩu tán tài sản của Nhà nước nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ.

Việc ra các quyết định quan trọng trong quản trị có sự thay đổi sau CPH. Trước khi CPH, các quyết định quan trọng nhiều khi đến từ cơ quan quản lý cấp trên (nhân sự, giao chỉ tiêu kế hoạch SXKD…) Sau CPH, các nội dung này đã được giao cho các cổ đông và HĐQT, ban giám đốc. Vì thế những quyết định quản trị sẽ sát thực hơn với doanh nghiệp, đem lại lợi ích nhiều hơn cho người lao động và các cổ đông. Bên cạnh đó, việc bổ nhiệm chủ tịch HĐQT và giám đốc không còn phụ thuộc vào cơ quan QLNN mà hoàn toàn do cổ đông quyết định. Điều này giúp cho cán bộ được bổ nhiệm vào cuộc một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất, không phải chờ đợi quá lâu từ cấp trên.

Những nhân tố trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình CPH, từ đó dẫn đến tiến trình CPH diễn ra nhanh hoặc chậm và sẽ ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình tái cơ cấu, đổi mới DNNN của các quốc gia.

1.3. KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CỔ PHẦN HÓA

1.3.1. Kinh nghiệm của nước ngoài

1.3.1.1. Kinh nghiệm của nước Anh

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính phủ Anh đã ra sức vận dụng học thuyết Keynes nhằm tăng cường vai trò can thiệp trực tiếp của mình vào sự ổn định và phát triển của nền kinh tế thị trường. Vào giữa năm 1979, trước khi bắt đầu cổ phần hóa, ở Anh có 51 công ty công cộng với số lao động khoảng 2 triệu. Trong quá trình CPH, Nhà nước đã bán 16 công ty, quá trình CPH ở Anh trải qua 3 giai đoạn:

Trong các năm 1979-1984: tập trung CPH các xí nghiệp quốc doanh vừa và nhỏ trong các công ty quốc doanh lớn thuộc các ngành có cạnh tranh trên thị trường để tạo nguồn thu bù đắp các khoản vay nợ của khu vực kinh tế nhà nước.

Từ năm 1985-1988: tập trung bán cổ phần cho công chúng đối với các công ty công cộng kinh doanh có tính chất độc quyền nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng.

Từ năm 1988 đến nay: bán đấu giá rộng rãi các doanh nghiệp kinh tế công cộng, chuyển chúng sang hoạt động cạnh tranh theo cơ chế thị trường.

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 28/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí