Thanh tra của Tổng thanh tra nhà nước; thanh tra nhà nước chuyên ngành; thanh tra của BQP; thanh tra nội bộ DN KTQP.
Kiểm toán nhà nước nhằm xác định tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của DN trong việc sử dụng kinh phí do NSNN cấp. Ngoài ra DN KTQP cũng áp dụng kiểm toán nội bộ của BQP và kiểm toán nội bộ trong DN.
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp kinh tế quốc phòng
1.2.4.1 Xu thế chung của thế giới
Các xu thế chung của thế giới có ảnh hưởng mạnh mẽ tới QLNN đối với DN trong đó có DN KTQP, đem lại cả cơ hội lẫn thách thức cho hoạt động QLNN đối với DN, đó là:
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, tự do hóa thương mại đòi hỏi xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, thủ tục thương mại trở nên đơn giản và ngày càng thống nhất trên phạm vi toàn thế giới, làm tăng cơ hội cho các nước đang phát triển được tiếp cận các nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, mở rộng quan hệ giao thương và khả năng hội nhập vào thị trường thế giới. Lúc này QLNN phải khai thông, phát triển quan hệ kinh tế quốc tế và tạo điều kiện thuận lợi để DN tận dụng được các cơ hội đó.
Quá trình hội nhập đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới QLNN theo hướng ban hành các chính sách, quy định phù hợp với cam kết quốc tế; BQP phải hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các DN KTQP mở rộng thị trường, liên doanh, liên kết, hợp tác quốc tế, xuất nhập khẩu hàng hoá; đồng thời, theo dõi, kiểm soát quá trình hội nhập để kịp thời ngăn chặn những tiêu cực và bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, QP.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản Lý Nhà Nước Đối Với Các Doanh Nghiệp Kinh Tế Quốc Phòng
- Tiêu Chí Đánh Giá Quản Lý Nhà Nước Đối Với Doanh Nghiệp Kinh Tế Quốc Phòng
- Quyết Định Mô Hình Tổ Chức Và Cấp Phép Đăng Ký Kinh Doanh Cho Các Doanh Nghiệp Kinh Tế Quốc Phòng
- Trình Độ Phát Triển Và Năng Lực Quản Trị Trong Doanh Nghiệp Kinh Tế Quốc Phòng
- Khái Quát Về Doanh Nghiệp Kinh Tế Quốc Phòng Việt Nam
- Năng Lực Tài Chính Và Kết Quả Sản Xuất Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp Kinh Tế Quốc Phòng
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
Thứ hai, sự liên kết giữa thị trường trong nước với thị trường thế giới thành một thị trường thống nhất buộc mọi nền kinh tế phải mở cửa thị trường. Nhiệm vụ này trước hết thuộc về vai trò của Nhà nước, đòi hỏi Nhà nước phải cải cách hành chính nhằm tạo ra môi trường thể chế tốt với các thủ tục hành chính minh bạch, đơn giản, thuận lợi cho DN.
Thứ ba, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế còn làm tăng mức độ gay gắt của cạnh tranh, đòi hỏi Nhà nước phải xác định lợi thế so sánh của mình trong chuỗi phân công lao động quốc tế và hỗ trợ DN nâng cao năng lực cạnh tranh. Vì Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), các đối tác sẽ tiếp tục giám sát chặt chẽ và có những đòi hỏi mạnh mẽ để Nhà nước phải thực hiện theo đúng những tiêu chí của WTO.
Sự thay đổi vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường [38], [102]
Trong thời đại ngày nay, vai trò của Nhà nước đang có sự thay đổi đáng kể. Nhà nước vẫn đóng vai trò trung tâm trong phát triển KT-XH của các quốc gia, nhưng không phải với tư cách là người trực tiếp tạo ra sự tăng trưởng, mà là một đối tác, là “bà đỡ” - người tạo điều kiện cho sự tăng trưởng đó. Như vậy quan hệ giữa Nhà nước và DN không chỉ là quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, mà còn là quan hệ giữa người cung cấp dịch vụ công và khách hàng sử dụng dịch vụ công đó. Dịch vụ công mà Nhà nước có trách nhiệm cung cấp cho DN trước hết là dịch vụ công thuần túy như hệ thống luật pháp, thể chế, chính sách công, ổn định kinh tế vĩ mô, quyền sở hữu tài sản, QPAN và trật tự xã hội.
Xu hướng thế giới về sự thay đổi vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường toàn cầu, tất yếu sẽ ảnh hưởng đến QLNN đối với DN KTQP. Đó là:
- Nhà nước chuyển từ vai trò người “chèo thuyền” thành người “lái thuyền”. Nghĩa là Nhà nước chỉ định hướng cho DN hoạt động chứ không làm thay DN. Nhà nước chỉ làm những gì mà các DN không làm hoặc làm không hiệu quả.
- Phi tập trung hóa quyền lực, tăng cường và mở rộng phân cấp trong QLNN đối với DN; phân quyền nhiều hơn cho các cấp chính quyền địa phương, lắng nghe tiếng nói của DN tham gia vào quá trình QLNN.
- Đưa cạnh tranh vào cung cấp dịch vụ công thông qua xã hội hóa, mở rộng quan hệ đối tác công - tư trong cung cấp dịch vụ công (các hình thức PPP). Như vậy Nhà nước không còn là người duy nhất và chủ yếu cung cấp dịch vụ công cho xã hội, nhưng Nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm chính trong cung cấp dịch vụ công.
- QLNN hướng tới kết quả đầu ra chứ không quá chú trọng đến đầu vào. Quá trình QLNN theo kết quả đầu ra được xác định từ việc xem xét mục tiêu mong muốn là gì, đầu ra là gì, từ đó tính toán xác định các yếu tố đầu vào cần thiết để lập dự toán ngân sách và phân bổ nguồn lực cho hiệu quả. Ngân sách được quyết định bởi giá cả thanh toán cho kết quả đầu ra mà DN cung ứng. Theo phương thức lập ngân sách theo kết quả đầu ra, DN được cơ quan QLNN trao nhiều quyền tự chủ trong quản lý chi của DN, từ đó nâng cao tính chủ động của DN trong nền kinh tế thị trường đầy biến động.
- Thúc đẩy sự thay đổi thông qua thị trường. Nhà nước xóa bỏ bao cấp, xóa bỏ đặc quyền đối với các DNNN, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, buộc các DN phải tự thay đổi để thích nghi với cơ chế thị trường.
Xu hướng phát triển của quân đội các nước trên thế giới
Phần lớn quân đội ở các nước hiện nay không tham gia hoặc ít tham gia làm kinh tế, mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ đất nước; phần lớn các nước không có DN thuộc sự quản lý của quân đội mà chỉ có DN công nghiệp quốc phòng (sản xuất vũ khí, trang thiết bị phục vụ QP..). Loại DN này cung cấp các sản phẩm/dịch vụ công thuần túy cho QP theo đơn đặt hàng của Nhà nước. Như vậy ở nhiều nước không có loại hình DN vừa làm nhiệm
vụ QP vừa làm nhiệm vụ kinh tế như ở Việt Nam hiện nay.
Tại các nước có nền kinh tế chuyển đổi trong đó có Việt Nam, khi kinh tế đất nước còn khó khăn, Nhà nước và Bộ QP chủ trương tồn tại mô hình DN KTQP, thực chất là DNQĐ làm kinh tế để sản xuất ra của cải vật chất, góp phần nâng cao đời sống cho bộ đội, tạo việc làm cho xã hội và đóng góp vào ngân sách, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo; đồng thời tận dụng được cơ sở hạ tầng, các nguồn lực dôi dư của Quân đội.
1.2.4.2 Quan điểm của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng
Quan điểm của Đảng, Nhà nước và BQP có ảnh hưởng quan trọng mang tính định hướng tới hoạt động QLNN đối với DN KTQP. Đó là:
a. Tiếp tục phát triển loại hình DN KTQP
Về sự tồn tại của loại hình DN KTQP, cho đến nay trên thế giới có hai quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất - Quân đội ngoài chức năng QP vẫn có thể làm kinh tế, do vậy mà tồn tại DN KTQP.
Theo quan điểm trên, Nhà nước cho phép một bộ phận DNQĐ có thể làm thêm nhiệm vụ kinh tế bên cạnh nhiệm vụ phục vụ QP (gọi là DN KTQP). Khi đó, các DN KTQP vẫn thuộc hệ thống quân đội và phải là lực lượng sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết, chẳng hạn khi xảy ra chiến tranh.
Ở những nước điều kiện kinh tế còn khó khăn, sự tồn tại của DN KTQP có thể coi là hợp lý. Một số nước như Việt Nam, Trung Quốc, Nga, Cu Ba, Lào, Campuchia... hiện ủng hộ quan điểm tiếp tục phát triển DN KTQP trong hệ thống DNNN để giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và phục vụ nhiệm vụ QP, đồng thời tận dụng được các lợi thế và nguồn lực để SXKD trên cơ sở DN KTQP phải hoàn thành nhiệm vụ chính trị phục vụ QP, qua đó góp phần tạo ra của cải vật chất, đóng góp vào sự phát triển kinh tế và QP của đất
nước, đem lại lợi ích cho DN và người lao động.
Gần đây theo xu hướng chung của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, các DN KTQP vẫn là DNNN, nhưng Nhà nước có thể không sở hữu 100% vốn như trước đây, mà thực hiện CPH nhằm giảm gánh nặng cho NSNN, tăng khả năng huy động vốn và hiệu quả SXKD của DN. Như vậy các DN KTQP cũng sẽ trở thành các công ty cổ phần, các Tập đoàn hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con, trong đó Nhà nước nắm cổ phần chi phối.
Ở Việt Nam quan điểm của Đảng, Nhà nước và BQP là tiếp tục phát triển loại hình DN này nhưng cần tái cấu trúc, tức là sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của DN KTQP.
Quan điểm thứ hai - Quân đội chỉ chuyên làm nhiệm vụ QP, không làm nhiệm vụ kinh tế, do đó không tồn tại DN KTQP riêng của Quân đội. Các DN KTQP có thể chuyển hẳn sang nhiệm vụ kinh doanh và không thuộc BQP quản lý, thậm chí DN QPAN cũng không trực thuộc Quân đội. Khi đó sẽ chỉ có DN thuộc ngành CNQP sản xuất sản phẩm theo đơn đặt hàng, và khách hàng chủ yếu là BQP. BQP có thể mua máy bay, xe tăng, đại bác, vũ khí hay bất kì hàng hóa gì phục vụ nhu cầu QP do các DN thuộc ngành CNQP và DN thuộc các ngành khác sản xuất, cung cấp theo hợp đồng với BQP. Đây là quan điểm ở hầu hết các nước trên thế giới. Đến giữa những năm 1990 với xu hướng xã hội hóa việc cung cấp hàng hóa dịch vụ công, Nhà nước không còn là người duy nhất cung cấp dịch vụ công, mà thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia thông qua việc tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh và các chính sách trong lĩnh vực này, nhờ đó tăng khả năng tiếp cận dịch vụ công với chất lượng, giá cả và sự phục vụ tốt hơn, kể cả hàng hóa, dịch vụ phục vụ QP – một trong các loại dịch vụ công không thể thiếu mà bất kì Nhà nước nào cũng phải quan tâm.
b. Thái độ của Nhà nước đối với DN KTQP
Có nên để DNNN trong đó có DN KTQP tiếp tục được nhận những ưu đãi từ Nhà nước hay không? Có quan điểm cho rằng DN KTQP là công cụ thực hiện nhiệm vụ phục vụ QP, đồng thời góp phần vào tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, góp phần giải quyết việc làm cho lao động trong và ngoài quân đội. Ngoài ra, DNNN trong đó có DN KTQP, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nên DNNN mặc nhiên được xem là xương sống của nền kinh tế. Vì vậy họ cho rằng nếu DN KTQP phá sản sẽ gây mất mát về kinh tế và QP, làm giảm sức chiến đấu của quân đội. Và cũng từ tầm nhìn như vậy mà Nhà nước nên trao cho các DN KTQP những ưu đãi, ưu tiên nhất định. Không nên đột ngột bỏ ưu đãi đối với DN KTQP cổ phần hóa vì nó có ý nghĩa cả về QP và kinh tế, kể cả trong trường hợp thời gian đầu hiệu quả kinh tế còn thấp.
Nhưng quan điểm của nhiều chuyên gia Việt Nam cũng như nước ngoài cho rằng, QLNN đối với DNNN trong đó có DN KTQP dành quá nhiều đặc quyền không đáng có, dễ dẫn đến sự câu kết tiêu cực giữa bộ máy QLNN với bộ máy DN. Khi DNNN được trao cho những đặc quyền, ưu đãi về vốn, tài nguyên và được bảo hộ vô điều kiện, thì nó sẽ không cần tăng năng lực cạnh tranh, hiệu quả thực sự chắc chắn thấp hơn so với DN dân doanh. Thực tế Việt Nam cho thấy nếu chỉ xét về hiệu quả tài chính thì đóng góp của DNNN vào nền kinh tế và chưa xứng tầm so với đầu tư của nhà nước và các lợi thế của nó. Vì vậy tiến tới xoá bỏ các ưu đãi cho DNNN sẽ giúp môi trường kinh doanh trong sạch, bình đẳng, đồng thời phải có sự kiểm soát chặt chẽ từ bên ngoài đối với DN.
c. Quan điểm về vấn đề sở hữu trong mối quan hệ giữa Nhà nước, đại diện chủ sở hữu và giám đốc DN KTQP
Về mặt sở hữu, do đặc thù của DN KTQP nên ở nước ta có nhiều đầu mối thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với loại hình DN này.
Đầu năm 2011, Thủ tướng chính phủ đã yêu cầu đổi mới DNNN theo hướng cơ quan hoạch định chính sách không đồng thời thực hiện chức năng chủ sở hữu DN, bởi sự mất cân đối giữa quyền lực và trách nhiệm trong DNNN đã làm nảy sinh tình trạng nơi thì can thiệp quá sâu, nơi bỏ lỏng chức năng quản lý của chủ sở hữu.
Trong Luật DN năm 2005, hai nguyên tắc về thực hiện quyền chủ sở hữu đối với DNNN đã được quy định khá rõ ràng, đó là tách biệt chức năng thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước với các chức năng khác của nhà nước và thực hiện quyền chủ sở hữu một cách tập trung, thống nhất. Cùng với quá trình CPH DN, tổng Công ty (TCT) Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước đã ra đời để thực hiện điều này. Theo đó, tổ chức này sẽ là một đơn vị tiếp nhận phần vốn nhà nước tại các DN để thực hiện quyền chủ sở hữu một cách chuyên nghiệp, minh bạch và hiệu quả nhất. Đây có thể coi là mấu chốt quyết định quá trình tách bạch vai trò chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN ra khỏi vai trò hoạch định chính sách của các đơn vị quản lý hành chính nhà nước.
1.2.4.3. Năng lực thể chế của Nhà nước
Năng lực thể chế của Nhà nước - yếu tố quyết định hiệu lực, hiệu quả và tác động của QLNN đối với DN KTQP. Năng lực này thể hiện: (i) Hệ thống luật pháp có đầy đủ, ổn định và công bằng cho các DN hay không. Mức độ ổn định của hành lang pháp lý sẽ tạo điều kiện cho DN phát triển. Ngược lại DN sẽ gặp khó khăn khi phải đối diện với những thay đổi thường xuyên của luật pháp. (ii) Hệ thống chính sách có hợp lý không, có tạo môi trường thuận lợi và hỗ trợ cho DN phát triển hay không. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước có vai trò tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh. Nhà nước thúc đẩy và tăng sức cạnh tranh cho DN thông qua các chính sách hỗ trợ hoạt động, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và các yếu tố đầu vào cho DN; kích cầu để mở rộng và tăng dung lượng thị trường đầu ra cho DN, đồng thời trong
cơ cấu chi tiêu của nền kinh tế, Nhà nước cũng là người mua với nhu cầu lớn và đa dạng, v.v.
Sự trong sạch của bộ máy và cán bộ công chức nhà nước. Đây là yếu tố được các nước đặc biệt là các nước đang phát triển đề cập rất mạnh trong những năm gần đây. Nó có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến hoạt động QLNN đối với DN cũng như kết quả hoạt động của DN. Ở những nước mà nạn tham nhũng hoành hành thì QLNN đối với DN không thể bảo đảm tính hiệu quả và tính công bằng, nó tạo ra một môi trường kinh doanh không minh bạch và một cách hành xử xấu là “đi cửa hậu”. Tham nhũng không chỉ làm tăng chi phí giao dịch và xói mòn các nguồn lực, mà còn làm xói mòn niềm tin của nhà đầu tư vào bộ máy nhà nước, làm giảm hiệu lực QLNN.
Theo kết quả nghiên cứu của Ngân hàng thế giới tại một số nước đang phát triển cho thấy, có mối liên hệ trực tiếp giữa mức độ tham nhũng của một Chính phủ với kết quả tăng trưởng kinh tế do các DN tạo ra. Những nước có chỉ số tham nhũng cao phần lớn đều là những nước kinh tế chậm phát triển. Và khi mức độ tham nhũng cao thì lợi ích của sự tăng trưởng không phải đem lại cho đại đa số nhân dân mà chủ yếu rơi vào túi những DN làm ăn bất chính nhưng biết đi hối lộ và một số công chức ăn hối lộ [57], [58].
1.2.4.4 Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước
Không chỉ khác nhau về thể chế chính trị, các quốc gia còn khác nhau về trình độ phát triển KT-XH, đặc điểm lịch sử, văn hóa và do đó có ảnh hưởng khác nhau đến QLNN đối với DN KTQP, có thể tạo ra thuận lợi hoặc khó khăn trong QLNN đối với DN KTQP.
Điều kiện kinh tế: Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, thu nhập quốc dân trên đầu người cao sẽ tạo điều kiện tăng tích lũy cho nền kinh tế, giảm bớt áp lực và khó khăn cho hoạt động QLNN đối với DN. Ở