1.3. Vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả
1.3.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả; khuyến khích đầu tư sáng tạo; cân bằng lợi ích của tác giả, lợi ích của người khai thác, sử dụng và công chúng hưởng thụ
Tác phẩm là kết quả của sự nỗ lực sáng tạo không ngừng, qua việc sử dụng trí tuệ của con người, do đó, Nhà nước cần phải thực hiện những nỗ lực cao nhất để khuyến khích sáng tạo. Việc bảo hộ thích đáng và có hiệu quả quyền tác giả là một trong những điều kiện tiên quyết để thúc đẩy hoạt động sáng tạo.
Việc bảo hộ quyền tác giả là một trong những công cụ hữu hiệu nhằm khuyến khích các tác giả sáng tạo ra các tác phẩm làm giàu kho tàng tri thức. Số lượng các tác phẩm văn học nghệ thuật càng nhiều thì tài sản trí tuệ của quốc gia đó càng lớn, lực lượng những người góp phần sáng tạo trong việc đưa tác phẩm đến với công chúng như các nghệ sĩ biểu diễn, nhà sản xuất chương trình ghi âm, tổ chức phát thanh, truyền hình ngày càng nhiều, thông qua đó đại bộ phận công chúng được tiếp thu và hưởng lợi nhiều giá trị tinh thần hơn.
Những lợi thế của quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả mang lại cho tác giả, chủ sở hữu quyền sự chủ động trong sáng tạo, đầu tư sáng tạo và phát triển công nghiệp bản quyền trên khuôn khổ pháp lý mà nhà nước quy định về quyền tác giả. Pháp luật là phương tiện tạo lập môi trường tự do và bình đẳng cho mọi hoạt động sáng tạo, công bố và phổ biến tác phẩm, đồng thời pháp luật là phương tiện bảo vệ lợi ích chính đáng của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm. Thông qua việc nhà nước thừa nhận các tác giả, chủ sở hữu được hưởng những quyền độc quyền nhất định và tạo cho họ khả năng nhận được phần thưởng cho những nỗ lực sáng tạo của mình, cùng với các quy định về cơ chế đảm bảo thực hiện, là cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ quyền tác giả. Chính sự ghi nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của các tác giả, các chủ sở hữu quyền đã giúp họ có được môi trường pháp lý an toàn, khuyến khích họ đầu tư sáng tạo.“Thông qua việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, Nhà nước tiếp tục khuyến khích năng lực
sáng tạo của văn nghệ sĩ, trí thức để có nhiều sản phẩm văn hóa tinh thần có giá trị phục vụ xã hội”[25].
Trong quá trình xây dựng pháp luật, việc nhận thức các lợi ích xã hội là bước khởi điểm của hoạt động xây dựng pháp luật, điều chỉnh cho phù hợp giữa các lợi ích là vấn đề quan trọng trong xây dựng pháp luật. Pháp luật về quyền tác giả phải có sự lựa chọn để điều chỉnh cho phù hợp, cân bằng lợi ích giữa quyền độc quyền của các chủ thể với lợi ích của công chúng trong xã hội, quyền của công chúng được tiếp cận với tri thức, thông tin và lợi ích chung của xã hội trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả nhằm khuyến khích sự sáng tạo tri thức, thúc đẩy tiến bộ khoa học, kỹ thuật, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Sự phát triển của xã hội đòi hỏi các sản phẩm trí tuệ phải phong phú và đa dạng. Trong đó, những người sáng tạo được độc quyền đối với sản phẩm trí tuệ là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm khích lệ sản phẩm trí tuệ. Tuy nhiên việc trao độc quyền tuyệt đối sẽ hạn chế tự do lưu thông tri thức và thông tin. Vì vậy, cần có sự cân bằng lợi ích giữa độc quyền và quyền cùng được hưởng thụ tri thức nhằm tăng phúc lợi xã hội một cách tối đa. Nguyên tắc cân bằng lợi ích là nguyên tắc cơ bản của pháp luật quyền tác giả. Trong phần mở đầu của Hiệp ước WIPO về quyền tác giả đã nêu mục tiêu chính của Hiệp ước là bảo đảm cân bằng giữa quyền lợi của tác giả với quyền và lợi ích của công chúng, đặc biệt là quyền được giáo dục, nghiên cứu và được biết thông tin.
Quyền tác giả được pháp luật quy định theo yêu cầu cân bằng lợi ích không chỉ đòi hỏi “đầy đủ và hữu hiệu” mà còn phải “thích đáng và hợp lý”. Căn cứ vào nguyên lý pháp lý học, “quyền lợi là sự pháp luật hóa lợi ích, là sự tự do trong phạm vi nhất định do luật định”. Điều này chứng tỏ bất cứ quyền lợi nào cũng đều có giới hạn. Giới hạn này là giới hạn hoặc điểm cân bằng giữa lợi ích của người này với lợi ích của người khác. Xét từ góc độ phối hợp quyền lợi của quyền tác giả, thì việc bảo hộ một cách thích đáng và hợp lý vừa bảo đảm được nhu cầu kích
thích sự sáng tạo trí tuệ vừa khiến cho việc thực hiện quyền tác giả không trở thành trở ngại đối với công chúng trong việc tiếp cận tri thức.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch - 2
- Khái Niệm Quản Lý Nhà Nước Bằng Pháp Luật Về Quyền Tác Giả
- Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Quyền Tác Giả
- Hợp Tác Quốc Tế Trong Quản Lý, Thực Thi Bảo Hộ Quyền Tác Giả
- Bộ Văn Hoá, Thể Thao Và Du Lịch Và Cục Bản Quyền Tác Giả Trong Quản Lý Nhà Nước Về Quyền Tác Giả
- Thực Hiện Các Biện Pháp Bảo Vệ Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Nhà Nước, Tổ Chức, Cá Nhân Trong Lĩnh Vực Bảo Hộ Quyền Tác Giả
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
Trên cơ sở điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của quốc gia, bên cạnh việc bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tác giả, chủ sở hữu quyền, để đảm bảo sự cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu quyền, người khai thác sử dụng và công chúng hưởng thụ, nhà nước thông qua pháp luật quy định các giới hạn quyền và các ngoại lệ nhất định để công chúng có thể tiếp cận được các tác phẩm một cách tự do, tuy nhiên phải tuân theo những điều kiện nhất định.
1.3.2. Góp phần bảo đảm phát triển công nghiệp bản quyền và phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội
Mục đích của bảo hộ quyền tác giả là nhằm khuyến khích sự sáng tạo, thu hút và bảo hộ đầu tư, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thông qua việc thúc đẩy sáng tạo, công chúng được hưởng thụ các tác phẩm văn học và nghệ thuật hay, có giá trị. Khi quyền tác giả được tôn trọng, người sáng tạo được nhận lợi ích tương xứng khi tác phẩm của họ được sử dụng sẽ là động lực kinh tế khiến tác giả sáng tạo ra nhiều tác phẩm hơn, có chất lượng cao hơn. Qua thời gian, chất lượng và số lượng tác phẩm sẽ tự nhiên tăng lên và thu nhập của các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, lực lượng khai thác sử dụng tác phẩm sẽ cao hơn. Các nguồn thu từ việc khai thác tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả sẽ góp phần tăng nguồn thu cho Nhà nước, đóng góp vào sự phát triển quốc gia. Lợi ích kinh tế tiềm năng sẽ tạo ra sự khuyến khích mạnh mẽ để đổi mới [27, tr.9]. Do đó, quyền tác giả đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Quyền tác giả và sự phát triển kinh tế ngày càng trở nên gắn bó chặt chẽ, bởi vì sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng đang là vấn đề nổi bật trong các cuộc tranh luận, đàm phán kinh tế quốc tế, nó đã trở thành một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế.
Những năm gần đây, vai trò kinh tế của quyền tác giả đã thu hút nhiều sự quan tâm của các quốc gia. “Công nghiệp bản quyền” được hình thành từ thực tiễn phát triển của khoa học, công nghệ, góp phần tạo ra sự tăng trưởng lớn trong
thương mại quốc tế, đồng thời do quy mô sản xuất và chất lượng tác phẩm ngày càng nâng cao, làm cho người ta càng chú ý đến giá trị của việc sản xuất và truyền bá văn hóa, tin tức, vui chơi, giải trí. Sức mạnh của các sản phẩm và dịch vụ mà ngành công nghiệp bản quyền tạo ra là không thể phủ nhận.
Qua thống kê ở một số nước cho thấy, ở Hòa Kỳ, năm 2004 ngành công nghiệp quyền tác giả đóng góp một khoản ước tính 1.300 tỉ USD, chiếm 11,09% GDP. Năm 2005, ngành công nghiệp quyền tác giả đóng góp một khoản ước tính
1.388 tỉ cho nền kinh tế, chiếm 11,12% GPD. Hàng năm ngành công nghiệp bản quyền giải quyết việc làm cho 11 triệu lao động, chiếm 8,5% lực lượng lao động của các nước[28].
Qua số liệu khảo sát của tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới năm 2005, tại một số quốc gia, cho thấy công nghiệp bản quyền có đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm quốc nội, tạo ra một lượng lớn công ăn việc làm. Ở Hà Lan, ngành công nghiệp bản quyền đóng góp 30,5 tỷ Euro chiếm 5,9% GDP, giải quyết việc làm cho 567.214 người chiếm 8,8% nhân công lao động. Ở Canada ngành công nghiệp bản quyền chiếm 4,5% GDP, nhân công lao động chiếm 5,6% của cả nước. Ở Phliippines ngành công nghiệp bản quyền chiếm 4,9% GDP, nhân công lao động chiếm 11,1% của cả nước. Ở Hàn Quốc ngành công nghiệp bản quyền chiếm 8,7% GDP, nhân công lao động chiếm 4,3% của cả nước[28].
Việc bảo hộ quyền tác giả hiệu quả sẽ tạo ra một cơ chế tác động qua lại về lợi ích giữa những người sáng tạo và lợi ích chung của xã hội thông qua việc công bố, phổ biến tác phẩm phục vụ công chúng, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Sự thừa nhận quyền tác giả đối với các sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học có tác dụng khuyến khích việc sáng tạo, thông qua sự sáng tạo cũng kích thích sự phát triển kinh tế.
1.3.3. Góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế
Thực hiện chính sách mở cửa hội nhập và hợp tác quốc tế với phương châm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước. Thực tế, Việt nam đã thiết lập quan hệ với nhiều nước, vùng lãnh thổ và tổ chức trên thế giới. Để quá trình hợp tác,
hội nhập quốc tế diễn ra thuận lợi, đạt mục đích đặt ra một cách tốt nhất, hai bên đều phải tìm hiểu truyền thống văn hóa, mọi lĩnh vực đời sống xã hội của nhau và cách tìm hiểu đạt hiệu quả cao và phổ biến là trao đổi các tác phẩm cho nhau. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam có vai trò giải quyết vấn đề này thông qua việc tham gia các điều ước quốc tế, xác định rõ các tác phẩm của các tổ chức, cá nhân nước ngoài được bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam và đồng thời xác định rõ tác phẩm của công dân, tổ chức của Việt Nam được hưởng sự bảo hộ tại những quốc gia nào.
Thông qua việc quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, hoạt động bảo hộ quyền tác giả có vai trò quan trọng đối với tiến trình chủ động hội nhập quốc tế theo chủ trương của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện ở một số khía cạnh sau:
- Bảo hộ quyền tác giả giúp nền kinh tế giữ được thế chủ động trong quá trình hội nhập, góp phần thúc đẩy, giao lưu thương mại phát triển. Mặt khác, cũng tạo ra cơ chế hữu hiệu nhằm bảo hộ, khuyến khích sáng tạo trong nước. Đặc biệt, khi Việt Nam tham gia vào các khu vực mậu dịch tự do, bảo hộ quyền tác giả là một công cụ quan trọng nhằm bảo vệ các nhà sáng tạo, các nhà đầu tư chân chính trong nước trước sự cạnh tranh của các sản phẩm văn hóa cùng loại trên thị trường, đặc biệt là sự tràn lan của hành vi vi phạm quyền tác giả. Bên cạnh đó, việc bảo hộ quyền tác giả còn góp phần chỉ ra và khẳng định lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh này được tạo ra từ lợi thế của các nhà sáng tạo, các nhà đầu tư để sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị được sử dụng và bảo hộ không chỉ trong nước mà còn được hưởng sự bảo hộ tại các quốc gia thành viên của điều ước quốc tế;
- Bảo hộ quyền tác giả góp phần tạo ra cho các nhà sáng tạo, đầu tư sáng tạo những hành trang vững chắc khi tham gia vào thị trường trong và ngoài nước, tạo thế chủ động cho họ trong hoạt động thương mại, tránh những rủi ro không đáng có xảy ra như một tiền lệ xấu trong giao lưu thương mại.
- Bảo hộ quyền tác giả cũng đóng vai trò thúc đẩy tiến trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta. Hệ
thống pháp luật về bảo hộ quyền tác giả, công cụ cơ bản thực hiện hoạt động quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này được coi như một yếu tố cấu thành thể chế nhằm phát triển kinh tế, thông qua vai trò thu hút và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam. Bởi lẽ, một trong các yếu tố quan trọng tác động tới quyết định đầu tư vào thị trường nước ngoài đó chính là sự tồn tại và tính hiệu quả của hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu nói chung và quyền tác giả nói riêng.
1.4. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả
1.4.1. Sự hoàn thiện củahệ thống pháp luật về quyền tác giả
Một xã hội văn minh là một xã hội sống và làm việc theo pháp luật. Không có pháp luật thì mọi quan hệ xã hội không được điều chỉnh bằng một ý chí thống nhất, xã hội không có trật tự kỉ cương. Do đó, để đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả thì yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất là phải xây dựng được cơ sở pháp lý cho hoạt động của các chủ thể pháp luật quyền tác giả, đảm bảo đúng yêu cầu, mục đích của chủ thể quản lý.
Pháp luật về quyền tác giả là cơ sở pháp lý cho các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức có thẩm quyền tiến hành hoạt động quản lý nhà nước, hoạt động bảo hộ quyền tác giả. Để trở thành phương tiện điều chỉnh các hoạt động quản lý nhà nước về quyền tác giả, đòi hỏi pháp luật về quyền tác giả phải đầy đủ, đồng bộ, công khai, minh bạch. Văn bản pháp luật phải thống nhất, đồng bộ, không trái với Hiến pháp, không chồng chéo mâu thuẫn giữa các văn bản luật hiện hành, đồng thời phải thể hiện được ý chí chung của nhân dân, lợi ích chung, lợi ích của đất nước. Điều rất quan trọng là phải ban hành kịp thời, đồng bộ các văn bản hướng dẫn thi hành luật để luật thực sự đi vào cuộc sống.
Hoàn thiện hơn nữa chất lượng của hệ thống pháp luật về quyền tác giả, bởi pháp luật càng đầy đủ, hoàn thiện, phù hợp với thực tế bao nhiêu, thì càng được Nhà nước và xã hội tự giác tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh bấy nhiêu. Do vậy, cần thường xuyên rà soát, tổng thể, đánh giá thực tiễn pháp luật để xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền tác giả. Hệ thống pháp luật cần được ban hành toàn diện, đồng bộ, phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước. Khi xây dựng pháp luật nhất thiết phải xuất phát từ những kinh nghiệm, những hoạt động pháp lý thực tiễn sao cho các quy định của pháp luật về quyền tác giả phải có khả năng được thực hiện trên thực tế.
Tính minh bạch công khai của các quy phạm pháp luật về quyền tác giả cần phải được thể hiện ngay từ quá trình xây dựng pháp luật, để người dân có điều kiện tham gia vào quá trình soạn thảo văn bản pháp luật, tham gia thảo luận, góp ý kiến, qua đó đề cao dân chủ, góp phần nâng cao ý thức tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội của nhân dân. Sau khi ban hành văn bản pháp luật phải được công khai trên công báo và các phương tiện thông tin đại chúng cho nhân dân biết để thực hiện.
1.4.2. Năng lực, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức thực hiện quản lý nhà nước về quyền tác giả
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”[29,tr.269], “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [29,tr.240]. Người cán bộ, công chức tốt là người có đủ trình độ năng lực, hoàn thành tốt công việc được giao, đồng thời là người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt. Trình độ năng lực quản lý và phẩm chất chính trị đạo đức của cán bộ, công chức là một trong những điều kiện đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả đạt hiệu quả trên thực tế. Nếu trình độ, năng lực quản lý của cán bộ, công chức yếu kém, cộng với sự thiếu trách nhiệm, thiếu chủ động trong việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật thì pháp luật dù có đúng đắn, đầy đủ, đồng bộ cũng chỉ nằm trên giấy mà không đi vào thực tế cuộc sống được.
Phẩm chất, chính trị, đạo đức của cán bộ, công chức có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả. Người cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt không những luôn luôn chấp hành, tuân thủ pháp luật nghiêm minh, có những xử sự theo đúng yêu cầu của
pháp luật mà trong quá trình thực thi công vụ của họ còn đảm bảo xử lý nghiêm minh, kịp thời.
Ngày nay trong xu thế hội nhập kinh tế, trong điều kiện khoa học công nghệ thay đổi nhanh chóng, đặc biệt là môi trường kỹ thuật số, nó ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động quản lý nhà nước về quyền tác giả. Để đáp ứng được đòi hỏi của thực tế đặt ra, bên cạnh việc tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống cho cán bộ, công chức, đòi hỏi phải có kế hoạch đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, kiến thức pháp lý, kiến thức quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức thực hiện việc quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả.
Cán bộ, công chức nhà nước không chỉ gương mẫu trong cuộc sống và làm việc theo pháp luật mà còn phải biết cách tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh các quy định pháp luật. Hiểu biết pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng để có thái độ đúng đắn đối với pháp luật, với quá trình tích cực, tự giác thực hiện pháp luật, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Việc vận dụng pháp luật vào từng trường hợp cá biệt phải thông qua lăng kính ý thức pháp luật và trình độ chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công chức. Việc thường xuyên cập nhật kiến thức pháp lý cho cán bộ, công chức là một trong những yêu cầu bắt buộc để giúp họ tự tin, thực hiện đúng đắn, chính xác nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
1.4.3. Ý thức của người dân về pháp luật quyền tác giả
Ý thức pháp luật của mỗi cá nhân, tổ chức và cả xã hội nói chung là một trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật đạt hiệu quả.
Ý thức pháp luật được hiểu là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, tình cảm của con người thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong cách xử sự của con người, trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức xã hội [46,tr.394].