hấp dẫn làm tăng giá trị của sản phẩm du lịch. Đây là yếu tố quan trọng để du khách, đặc biệt là du khách “khó tính”, lựa chọn. Trước hết đó là tài nguyên du lịch, dịch vụ quảng cáo, quan hệ công chúng PR, uy tín, thương hiệu, sự sang trọng,…;
H) Là khoảng thời gian của nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của du khách. Đây là khoảng thời gian phải cung cấp kịp thời, đúng lúc nhu cầu của khách.
Thông qua I, J, K, H là hoạt động sáng tạo, sự định vị thông minh, sự khác biệt và đúng lúc mà du khách cần để tạo nên “đẳng cấp” sản phẩm: Sản phẩm du lịch rẻ tiền (đẳng cấp thấp) khi Si > Di; Sản phẩm du lịch có chất lượng (đẳng cấp trung bình) khi Sij = Dij; Sản phẩm du lịch chất lượng cao, hợp “gu”, đúng lúc (đẳng cấp cao) khi Sijkh < Dijkh. Trong đó: S (supply) - Cung ; D (demand) - Cầu.
Những đặc điểm cơ bản của “sản phẩm du lịch” bao gồm: Tính tổng hợp, đa dạng, nhiều cấp độ; Tính không dự trữ, lưu kho được; Tính không thể chuyển dịch, phân chia được; Tính đồng thời của hoạt động sản xuất và tiêu thụ; Tính vô hình, dễ thay đổi, không đồng nhất; Tính không chuyển giao quyền sở hữu; Tính mới cho cả chủ thể (khách du lịch), khách thể (môi trường, cảnh quan, tài nguyên) và môi giới du lịch (ngành kinh doanh du lịch).
Như vậy, khi nghiên cứu “sản phẩm du lịch” ngoài việc chú trọng đến các yếu tố hình thành lên “sản phẩm”, cần thiết phải lưu ý đến những đặc điểm cơ bản của sản phẩm du lịch.
b) Sản phẩm du lịch văn hóa
Du lịch văn hóa được cho là loại hình cổ nhất của hiện tượng du lịch “mới”. Người ta đi du lịch vì những điều mà giờ gọi là những lý do du lịch văn hóa từ thời kỳ cổ đại ở Rome; chỉ vì họ chưa bao giờ được nhận ra là một nhóm người du lịch riêng rẽ trước đó. Tham quan các di tích lịch sử, điểm văn hóa nổi tiếng, tham dự các sự kiện và lễ hội hay đến thăm các bảo tàng thường là một phần của trải nghiệm du lịch tổng thể. Tất cả các chuyến đi đều hàm chứa các yếu tố văn hóa. Về bản chất, du lịch tạm thời đưa du khách rời khỏi nền văn hóa và địa phương mình để đến một môi trường văn hóa khác, ở một thành phố gần đó hay một làng cách xa
nửa vòng trái đất. Nhưng du lịch được cho là cung cấp một thứ gì đó nhiều hơn hoặc khác với cả du khách và cộng đồng sở tại đón tiếp du khách [123].
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý lễ hội truyền thống gắn với phát triển sản phẩm du lịch qua khảo sát lễ hội kiếp bạc Hải Dương và lễ hội tịch điền Hà Nam - 2
- Các Khái Niệm, Định Nghĩa Và Nội Hàm
- Tài Nguyên Du Lịch, Sản Phẩm Du Lịch Và Sản Phẩm Du Lịch Văn Hóa
- Mong Đợi Và Biện Pháp Tác Động Đến Các Nhóm Đối Tượng
- Những Công Trình Nghiên Cứu Về Lễ Hội Kiếp Bạc (Hải Dương)
- Mô Hình Quản Lý Các Bên Liên Quan (Phỏng Theo Allen, J., 2001)
Xem toàn bộ 228 trang tài liệu này.
“Du lịch văn hoá” được hiểu là một loại hình du lịch có mức độ phổ biến vào loại rộng rãi nhất. Dễ thấy, “du lịch văn hoá đang trở thành xu thế chủ đạo trong chiến lược phát triển của ngành du lịch thế giới” và xu hướng đó cũng được thể hiện rõ ở Việt Nam trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII.3
Cần phân biệt “du lịch văn hoá” với “văn hoá du lịch”. Theo đó, “khái niệm thứ nhất là nền du lịch dựa trên nguồn tài nguyên văn hoá; trong khi khái niệm thứ hai là nói đến mối quan hệ giữa văn hoá trong hoạt động du lịch với những nội hàm văn hoá cuả toàn bộ hệ thống sản phẩm du lịch…”[13, tr.67]
Môi trường văn hoá - xã hội, môi trường nhân văn, tài nguyên du lịch văn hóa là điều kiện cho phát triển loại hình du lịch văn hoá và sự khác biệt về văn hoá là yếu tố quan trọng bậc nhất hấp dẫn du khách, từ đó cho thấy rõ ràng nội dung của loại hình du lịch văn hoá. [14, tr.47].
Như vậy, quan niệm về “du lịch văn hoá” cơ bản không có sự khác biệt theo hướng xung đột (conflictly defining a concept). Tựu chung, du lịch văn hoá là một loại hình du lịch lấy tài nguyên du lịch văn hóa làm đối tượng khai thác nhằm phục vụ nhu cầu hiểu biết, thưởng thức, trải nghiệm và cảm nhận những giá trị văn hoá, xã hội, nhân văn tại điểm đến của du khách mà lễ hội là một thành tố cấu thành nguồn tài nguyên văn hóa nhân văn phong phú đó.
Hiện nay, một trong những mối quan tâm của cộng đồng này là du lịch văn hóa chất lượng cao. Theo những nghiên cứu của Cộng đồng châu Âu thì sản phẩm du lịch văn hóa chất lượng cao vẫn phải đảm bảo những điều kiện như sản phẩm đại trà, tức là đầy đủ về cơ sở hạ tầng (khách sạn, nhà hàng, xe cộ đi lại...), đội ngũ hướng dẫn và đội ngũ chăm lo các dịch vụ cần thiết khác. Nhưng khác với sản phẩm thông thường, du lịch văn hóa chất lượng cao đòi hỏi phải có những nhân tố sau: 1) Hàm lượng trí tuệ
3 Cụ thể: “… Phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch văn hoá, sinh thái, môi trường. Xây dựng các chương trình và các điểm du lịch hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử và khu danh lam thắng cảnh.”
cao: Du lịch văn hóa chất lượng cao có bản sắc văn hóa sâu đậm hơn bình thường nên việc thiết kế sản phẩm này cần sự đầu tư trí tuệ đáng kể [3]. Chẳng hạn, nếu sản phẩm thuộc loại tìm hiểu lịch sử thì nó phải được các chuyên gia về sử tham gia dàn dựng, sản phẩm thuộc về văn học thì cần có chuyên gia bảo tàng và các nhà nghiên cứu văn học tham gia thiết kế. 2) Đội ngũ hướng dẫn, phục vụ du lịch phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tay nghề cao. Chẳng hạn, muốn đảm nhiệm việc tổ chức một hội thảo quốc tế về một vấn đề khoa học thì đội ngũ phục vụ phải thành thạo ngoại ngữ và biết cách liên kết với các nhà khoa học hay một trường đại học nào đó để lập các chương trình và thực hiện hội thảo. 3) Du lịch văn hóa chất lượng cao không thể do một đơn vị riêng lẻ đảm nhiệm mà phải là sự hợp tác thường xuyên giữa nhiều đơn vị, nhiều cơ quan chức năng, nhiều cơ sở văn hóa, giáo dục... [24].
Như vậy, sản phẩm du lịch là toàn bộ chương trình du lịch, các dịch vụ du lịch cùng với tài nguyên du lịch được khai thác cho hoạt động du lịch. Thành phần của sản phẩm du lịch: sản phẩm lữ hành; sản phẩm dịch vụ du lịch được cụ thể hoá trong các lĩnh vực dịch vụ khác nhau: dịch vụ lưu trú, ăn uống, bổ sung; các dịch vụ cụ thể khi trực tiếp phục vụ khách du lịch: đồ lưu niệm, đồ uống, món ăn…
1.1.1.5. Phát triển sản phẩm du lịch
Cùng với sự phát triển của ngành du lịch, đặc biệt là sau nghị quyết 08/NĐ- CQ của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam về việc “phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước” [15], việc phát triển sản phẩm du lịch được coi là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển du lịch của các địa phương. Chính vì thế mà Luật du lịch 2017 đã phải bổ sung quy định về “phát triển sản phẩm du lịch” [Phụ lục]. So với Luật du lịch 2005 thì đây là một bước tiến quan trọng vì lần đầu tiên luật hóa vấn đề “phát triển sản phẩm du lịch”, tuy nhiên mới dừng lại ở việc khẳng định nhận thức, sự cần thiết và khuyến khích mà thôi, chưa nêu rõ được nội hàm của vấn đề này.
Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu tiến hành làm rõ nội hàm “phát triển sản phẩm du lịch”. Trương Quang Dũng cho rằng sản phẩm du lịch phải được xác định dựa trên sự hiểu biết về thị trường du lịch, xu hướng và thị hiếu khách du lịch [24]. Vì
vậy, nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm và tiếp thị là một sự kết nối liên tục trong quá trình phát triển sản phẩm du lịch. Sự liên kết giữa thị trường và sản phẩm phải tuân theo các quy luật cơ bản của thị trường, đó là các quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật giá trị. Phát triển sản phẩm du lịch có thể tiếp cận theo nhiều hướng khác nhau như: 1) Các yếu tố thu hút và phục vụ khách bao gồm cơ sở hạ tầng (đường xá, điện nước, thông tin liên lạc, các loại phương tiện vận chuyển khách), cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ khách (các cơ sở lưu trú, ăn uống, giải trí, mua sắm...), nhân viên phục vụ và cơ sở vật chất và tiện nghi khác; đặc biệt là vấn đề tiếp thị, quảng cáo và xây dựng hình ảnh cho điểm đến. 2) Theo một hướng tiếp cận khác, phát triển sản phẩm du lịch bao gồm phát triển những điểm tham quan, các hoạt động và các dịch vụ đa dạng phục vụ khách. Trong hai cách tiếp cận trên, cách thứ nhất đóng một vai trò quyết định đến việc phát triển sản phẩm du lịch tại các điểm đến du lịch. Mặt khác, phát triển sản phẩm du lịch của một điểm đến không chỉ phục vụ cho khách du lịch quốc tế, khách du lịch nội địa mà cả đáp ứng nhu cầu của cộng đồng dân cư xung quanh. Phát triển sản phẩm du lịch là một quá trình mà trong đó các giá trị của một địa điểm cụ thể được sử dụng tối đa để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch trong nước, khách du lịch quốc tế và người dân địa phương.
Theo Nguyễn Đức Tân thì để phát triển sản phẩm du lịch nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập của du lịch Việt Nam với khu vực và quốc tế, việc tập trung xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm du lịch, phát triển quy mô sản phẩm du lịch, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch Việt Nam dựa trên cơ sở: 1) Nguyên tắc phù hợp với nhu cầu khách: tìm hiểu nhu cầu, xu hướng của khách du lịch và nghiên cứu thị trường để tìm ra nguồn khách, thị trường mục tiêu, từ đó tiến hành các công việc kinh doanh du lịch. 2) Nguyên tắc lợi ích kinh tế: bất cứ đầu tư xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch nào cũng cần phải xét đến những tác động của nó đối với nền kinh tế. 3) Nguyên tắc đặc sắc: nét đặc trưng của thiên nhiên, văn hóa cộng đồng địa phương là nền tảng để tạo ra sức hấp dẫn của các sản phẩm du lịch. 4) Nguyên tắc bảo tồn và giữ gìn: khi khai thác tài nguyên du lịch cần bảo đảm nguyên tắc bảo tồn và gìn giữ
môi trường, duy trì sự cân bằng sinh thái, nghiêm cấm việc phá hoại cảnh quan môi trường nhất là các tài nguyên du lịch có giá trị đặc biệt [73].
Cũng dựa trên quan điểm phải xây dựng chi tiết nội dung hướng dẫn xây dựng sản phẩm du lịch, Dự án Du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (gọi tắt là Dự án EU) đã đưa việc “phát triển và thiết kế dịch vụ và sản phẩm du lịch có trách nhiệm” thành một đơn vị năng lực trong bộ tiêu chuẩn nghề Việt Nam VTOS [4]. Mặc dù đến thời điểm hiện tại, bộ tiêu chuẩn này mới chỉ được sử dụng theo hướng tham khảo song hứa hẹn trong tương lai nó sẽ được chính thức hóa để chất lượng sản phẩm du lịch Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.
1.1.2. Một số quan điểm về quản lý lễ hội và lễ hội truyền thống
1.1.2.1. Quan điểm của nhóm tác giả Ian McDonnell, Johnny Allen và William O’ Toole: Trong cuốn sách Quản lý lễ hội và các sự kiện đặc biệt, Ian McDonnell, Johnny Allen và William O’ Toole (1999) đã tập trung vào những mặt quản lý lễ hội tại Úc thông qua các điển tích. Lễ hội là thuật ngữ dùng để chỉ những nghi lễ đặc biệt, những buổi biểu diễn đặc biệt đã được đặt kế hoạch và đánh dấu sự kiện đặc biệt nào đó để đạt được mục tiêu văn hóa xã hội [116, tr.10]. Với những sự kiện lớn như Olympic hoặc sự kiện ở tầm cỡ thế giới cho đến những sự kiện ở địa phương đều có điểm chung là cần phải xem xét ảnh hưởng của các lễ hội đó tới cộng đồng nơi lễ hội diễn ra. Trong đó ảnh hưởng về kinh tế được quan tâm chú ý nhiều nhất. Các sự kiện lễ hội đó được coi là đòn bẩy phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm. Ảnh hưởng tới môi trường cũng được chú ý tới. Khi quản lý các lễ hội, cần phải chú trọng lập kế hoạch, tiếp thị để đảm bảo cho sự kiện thành công. Để lập được kế hoạch một cách hiệu quả, cần phải dựa vào những mục tiêu có tính khả thi. Nếu không đánh giá được kết quả lễ hội thì khó đánh giá được thành công quản lý đạt được tới đâu.
Theo Ian McDonnell, Johny Allen và Wiliam O’ Toole, nguồn nhân lực và lãnh đạo cũng rất quan trọng nếu muốn có được sự quản lý “lễ hội lấy khách hàng làm trọng tâm”. Ngoài ra, sự tâm huyết của những người tình nguyện cũng giúp các nhà quản lý có được một đội ngũ làm việc hiệu quả. Kỹ năng của các cán bộ quản lý cũng cần được chú ý. Nguồn tài trợ, cơ chế kiểm soát tài chính và ngân sách, khả
năng đàm phán, thuế, bảo hiểm, những vấn đề hành chính cũng đóng vai trò quan trọng trong cơ chế quản lý. Quản lý rủi ro, kỹ năng xác định, đánh giá và kiểm soát rủi ro cũng phải được xem xét. Quản lý hậu cần, quản lý và đánh giá sân khấu (ánh sáng, âm thanh) cũng là những phần quan trọng của quản lý. Dự đoán những nhu cầu phát sinh cũng không nằm ngoài cơ chế quản lý [116].
1.1.2.2. Quan điểm quản lý lễ hội với tư cách là di sản của Bùi Hoài Sơn:
[71] Đặt vấn đề quản lý lễ hội trong khoa học quản lý văn hóa; lễ hội truyền thống được xem là một phạm trù thuộc khái niệm di sản văn hóa phi vật thể, có sự biến đổi, tích lũy và lựa chọn văn hóa qua thời gian. Do đó, quản lý lễ hội với tư cách là một loại hình di sản sẽ khác so với việc quản lý các loại hình di sản văn hóa khác. Bởi quản lý lễ hội lúc này sẽ phải xem xét đến tính cộng đồng, tính chất tự quản, tính linh hoạt, tính không cố định trong thành phần ban tổ chức, thêm vào đó quản lý lễ hội phụ thuộc rất lớn vào sự tự nguyện đóng góp và tham dự của người dân.
Như vậy, quản lý lễ hội với tư cách là một loại hình di sản không chỉ đơn thuần là công việc trực tiếp liên quan đến di sản mà đây còn là công việc quản lý một xã hội thu nhỏ bao gồm: 1) Quản lý việc phục hồi, bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống; và 2) Lập kế hoạch hoạt động, tổ chức nguồn nhân lực, tuyên truyền, quảng bá, tìm kiếm nguồn tài trợ, phát triển các dịch vụ, cơ sở hạ tầng có liên quan,… tùy theo quy mô của từng lễ hội. Do đặc điểm bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ khác nhau nên nhận thức về xã hội, vai trò của lễ hội truyền thống đối với xã hội cũng khác nhau. Vì vậy, quản lý lễ hội cũng có khác biệt nhất định theo từng giai đoạn lịch sử.
Tác giả Bùi Hoài Sơn đã phân tích, lý giải lý thuyết về quản lý lễ hội dựa trên 3 quan điểm: bảo tồn nguyên vẹn, bảo tồn trên cơ sở kế thừa và quản lý di sản.
Theo quan điểm bảo tồn nguyên vẹn, sản phẩm của quá khứ nên được bảo tồn nguyên vẹn như nó vốn có để tránh tình trạng thế hệ hiện tại làm méo mó, biến dạng di sản. Theo quan điểm này, chuyện cải biến, nâng cao hoặc phát triển là không thể. Tuy nhiên, trong nghiên cứu, tác giả Bùi Hoài Sơn đã chỉ ra việc quản lý lễ hội trên thực tế không đơn thuần chỉ là đưa ra những biện pháp để bảo tồn
nguyên vẹn. Quản lý lễ hội với tư cách là một loại hình di sản cần được xem xét quản lý theo một hướng khác, phù hợp với yêu cầu của xã hội và bối cảnh kinh tế - chính trị của đất nước theo từng giai đoạn phát triển.
Quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa dựa trên cơ sở “mỗi di sản cần phải thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình ở một thời gian và không gian cụ thể.”4 Theo đó, quản lý lễ hội cần phải được tiến hành sao cho lễ hội truyền thống có thể phát huy hết giá trị văn hóa, biến đổi phù hợp với bối cảnh văn hóa xã hội theo từng giai đoạn lịch sử. Những yếu tố hợp lý cần được bảo tồn, kế thừa và phát huy.
Sau khi đưa ra các vấn đề lý thuyết về quản lý lễ hội với tư cách là di sản, Bùi Hoài Sơn nêu những vấn đề đặt ra đối với quản lý lễ hội truyền thống nhìn từ các văn bản quản lý, phản ánh qua hai giai đoạn từ 1945 đến trước Đổi Mới và từ Đổi Mới cho đến nay. Theo thời gian, các quy định quản lý lễ hội trong các văn bản ngày càng chi tiết, cụ thể đối với tất cả lễ hội nói chung và tùy từng lễ hội nói riêng cũng như những hoạt động, hiện tượng cụ thể xảy ra tại lễ hội. Sự thay đổi của các quy định, điều khoản này là hoàn toàn phù hợp với tiến bộ của xã hội. Tuy nhiên, để những văn bản này thật sự đi vào thực tế, tác động tới việc quản lý lễ hội thì sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ban, ngành, địa phương trong việc ban hành và thực thi triển khai là rất quan trọng và cần thiết.
Quản lý lễ hội với tư cách là di sản, theo tác giả cần phải tập trung vào các quan điểm “Quản lý lễ hội không chỉ là mục đích văn hóa mà còn mà mục đích chính trị, kinh tế, xã hội. Việc quản lý lễ hội cần quan tâm đến nguồn lực tài chính, nhân lực và phải có chính sách thích hợp để tận dụng nguồn lực này; Quản lý lễ hội là vấn đề chiến lược bảo tồn”5. Quản lý lễ hội tốt không chỉ thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân, mà còn nhằm tạo cơ hội cho địa phương phát triển kinh tế xã hội và giáo dục truyền thống yêu nước của dân tộc. Nguồn tài chính, nhân lực đảm bảo cho tiến hành, tổ chức các hoạt động của lễ hội. Chính sách cụ thể giúp triển khai thực hiện quản lý được rõ ràng theo định hướng và có sự
4 Bùi Hoài Sơn, Quản lý lễ hội với tư cách là di sản, http://vhnt.org.vn/NewsDetails.aspx?NewID=768&cate=75, truy cập ngày 25/01/2014.
5 Bùi Hoài Sơn, Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt ở châu thổ Bắc bộ từ năm 1945 đến nay, http://www.vjol.info/index.php/ssir/article/view/2190/2122, truy cập ngày 25/01/2014
bảo đảm thực thi của pháp luật. Quản lý lễ hội giúp bảo tồn những giá trị tốt đẹp của văn hóa, loại bỏ những yếu tố không hợp lý với xu hướng phát triển của xã hội.
Cuối cùng, Bùi Hoài Sơn đưa ra năm giải pháp quản lý lễ hội truyền thống dưới góc độ quản lý di sản:
Một là, Quản lý lễ hội thông qua các biện pháp tuyên truyền, giáo dục qua dư luận xã hội. Lễ hội được tiến hành một cách tự nguyện, linh hoạt, dựa trên sự đóng góp chủ yếu của người dân, mang tính chất cộng đồng. Do đó, tuyên truyền, giáo dục qua dư luận xã hội là rất cần thiết. Nó giúp người dân hiểu được các giá trị văn hóa, kinh tế cũng như xã hội mà lễ hội mang lại. Từ đó, họ sẽ có ý thức tự giác hơn trong quản lý lễ hội, làm cho lễ hội phát huy được hết những chức năng và giá trị của mình. Hai là, Quản lý lễ hội bằng cách hoàn thiện các thể chế luật pháp chính sách.
Hoàn thiện các văn bản pháp luật giúp cho việc quản lý lễ hội được tiến hành một cách dễ dàng hơn, từ đó khai khác được hết tiềm năng của lễ hội, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, không chỉ đảm bảo nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân mà còn đem lại nguồn lợi cho người dân địa phương.
Ba là, Quản lý lễ hội bằng cách giám sát, kiểm tra. Việc làm này giúp cho công tác tổ chức quản lý lễ hội diễn ra một cách có hiệu quả, đánh giá hoạt động nhằm kịp thời tác động để mọi người chấp hành đúng theo những quy định đã được đặt ra, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao, phát hiện phòng ngừa, ngăn chặn những tệ nạn phát sinh trong lễ hội.
Bốn là, Phải đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý văn hóa. Quản lý lễ hội chỉ được thực hiện tốt khi có một đội ngũ cán bộ có đủ trình độ, chuyên môn, năng lực và phẩm chất đảm nhận công việc được giao. Đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa chính là nhân tố quyết định đến chất lượng hoạt động quản lý lễ hội. Vì vậy, việc đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ này là rất quan trọng, cần được tiến hành thường xuyên để theo kịp sự tiến bộ của xã hội.
Năm là, Quản lý lễ hội trong thực tế rất đa dạng và luôn thay đổi theo không gian và thời gian. Do đó, quản lý lễ hội dưới tư cách quản lý di sản cũng có những hạn chế nhất định nếu như chỉ đặt quản lý lễ hội dưới góc độ quản lý văn hóa.