Các Công Trình Nghiên Cứu Về Quản Lý Di Tích Lịch Sử - Văn Hóa Trong Mối Liên Hệ Với Kinh Tế Và Du Lịch


Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Nghiên cứu DTLS-VH là chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nước, theo khảo cứu của nghiên cứu sinh có thể khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án theo ba nhóm vấn đề chính sau đây.

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về quản lý di tích lịch sử - văn hóa trong mối liên hệ với kinh tế và du lịch

Là một thành tố quan trọng của di sản văn hóa, DTLS-VH được giới nghiên cứu tiếp cận khá sớm, từ đầu thế kỷ XIX đã có những người say mê di sản với lòng tin là họ bảo tồn những thứ có lợi cho công chúng. Sang thế kỷ XX, khi các Hiệp hội di sản châu Âu ra đời, nghiên cứu di sản phát triển xuất hiện cụm từ “quản lý di sản” và phát triển mạnh vào nửa sau thế kỷ XX.

Công trình Nghiên cứu di sản: Các phương pháp và các cách tiếp cận của John Carman và Marie Louise Stig Sorensen [127] tuy nghiên cứu về di sản nói chung nhưng đã phản ánh sự phát triển thực hành và quản lý di sản cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX là các hoạt động công cộng đánh dấu sự khác biệt trong quan điểm nhìn về quá khứ. Ở giai đoạn này DTLS-VH đã là mối quan tâm chung, thể hiện lợi ích và trách nhiệm của các cộng đồng. Các công trình theo hướng này tập trung hai vấn đề cơ bản: bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Ashworth G.J và Larkham P.J trong Xây dựng một di sản mới: Du lịch, văn hóa và bản sắc ở châu Âu mới [122] đưa ra 3 quan điểm: bảo tồn nguyên gốc; bảo tồn có sự kế thừa bảo tồn phát triển. Trong đó, quan điểm bảo tồn phát triển được nhiều học giả ủng hộ.

Tiếp cận đầu tiên về kinh tế - văn hóa ở Hoa Kỳ vào những năm 1960, theo đó văn hóa tác động đến kinh tế tương tự như tác động đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Tuy nhiên, lý thuyết về Kinh tế học văn hóa đã được đề cập trước đó rất lâu từ cách đặt vấn đề của Max Weber [74] dưới góc nhìn của “mối quan hệ giữa đức tin với hoạt động kinh doanh”; chủ nghĩa tư bản gắn liền với nền tảng đạo


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 298 trang tài liệu này.

đức đề cao giá trị, cống hiến của người kinh doanh. Điểm khác biệt là văn hóa, bên cạnh vai trò của một thành tố chính gắn kết xã hội và tái thiết bản sắc, còn là một trụ cột quan trọng để hình thành sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Giao dịch kinh tế trong văn hóa tạo hiệu ứng tích cực như: quá trình học tập, sáng tạo và tri thức. Cách tiếp cận thứ hai về kinh tế học văn hóa vào cuối thập kỷ 70 đầu những năm 1980, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế cắt giảm ngân sách của chính phủ châu Âu đã kéo giảm chi tiêu công cho văn hóa, chỉ ưu tiên các lĩnh vực có năng suất cao. Văn hóa được lưu ý nhiều hơn khi chuyển đổi từ một ngành chỉ được trợ cấp sang ngành có đóng góp cho sự tăng trưởng, tạo việc làm và giá trị gia tăng cho nền kinh tế, trên cơ sở đó có chính sách ưu tiên hỗ trợ sáng tạo văn hóa.

Thách thức lớn đối với văn hóa là vừa phát triển, vừa đảm bảo quyền bình đẳng và tính đa dạng văn hóa: từ văn hóa dân gian, văn hóa đại chúng đến văn hóa tinh hoa; duy trì cân bằng giữa hiện đại với truyền thống, giữa hiệu quả và công bằng. Các nghiên cứu đã chỉ ra: mọi hoạt động văn hóa dù chỉ có một phần hay không có phần nào liên quan đến thị trường, vẫn có khía cạnh kinh tế bởi chúng sử dụng tài nguyên như hoạt động kinh tế khác [11].

Quản lý di tích lịch sử - văn hóa trong phát triển du lịch ở tỉnh Bến Tre - 3

Nghiên cứu theo cách tiếp cận này, tiêu biểu có David Throsby với Kinh tế và Văn hóa, [125] theo ông: trong thế giới toàn cầu hóa, kinh tế và văn hóa là hai trong số những lực lượng mạnh nhất định hình hành vi con người. Mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa vừa là lĩnh vực của diễn ngôn trí tuệ, vừa là hệ thống tổ chức xã hội. Từ quan niệm rộng về văn hóa, trên nền tảng của lý thuyết giá trị, David Throsby phát triển các khái niệm song sinh về giá trị kinh tế và văn hóa làm nguyên tắc cơ bản tích hợp hai lĩnh vực này, khám phá các khía cạnh kinh tế của văn hóa và bối cảnh phát triển của kinh tế học văn hóa. Brian Garrod, Alan Fayall khi nghiên cứu về quản lý di sản gắn với du lịch trong Quản lý du lịch di sản [123], chỉ ra cần có sự cân bằng giữa bảo tồn và khai thác, nếu không di sản sẽ bị mất. Hai tác giả này thừa nhận PTDL di sản là cần thiết phải là phát triển bền vững, có sự cân bằng giữa bảo tồn và khai thác bởi nếu di sản không được bảo vệ, giữ gìn sẽ bị mất đi.


Theo các nhà nghiên cứu, DTLS-VH không chỉ có giá trị biểu tượng mà cần được sống trong cộng đồng, tức là phải đóng góp vào sự phát triển chung, di sản phải phục vụ cộng đồng. Ashworth G.J và Larkham P.J cho rằng khi khai thác các giá trị di sản cần có cách quản lý phù hợp đặc điểm di sản [122]. Dù chưa có sự thống nhất cao, song đa số các học giả đều cho rằng du lịch là phương thức tốt để bảo tồn và phát huy giá trị di tích [132].

Các nhà nghiên cứu như Randall Manson, Daniel Bluestone hay David Throsby… đều quan tâm đến vấn đề kinh tế trong DTLS-VH, coi di sản là vốn quý của các thế hệ đi trước để lại, nhưng yêu cầu đặt ra là cần khai thác hợp lý để đạt hiệu quả kinh tế, Raymond A. Rosenfel cho rằng di sản và du lịch là công cụ phát triển kinh tế [139]. Arthur Perdersen trong Hướng dẫn thực hành quản lý di sản thế giới [121] đưa ra phương án quản lý di sản trước sự tác động của du lịch là khoanh vùng cho các hoạt động tương thích, giảm bớt số lượng khách, thậm chí đóng cửa ở một số khu vực. Ở công trình Những vị chủ nhà và những vị khách: Nhân chủng học du lịch, Valene L. Smith [141] đề cập nhiều khía cạnh, nhất là quan hệ giữa du khách và văn hóa bản địa, bảo tồn văn hóa bản địa trong PTDL. Đây là kết quả nghiên cứu công phu, là cẩm nang du lịch có giá trị tham khảo cho các nước.

Pierre L.Van den Berghe trong Một góc nhìn khác về du lịch dân tộc ở San Cristobal, Mexico [138] cho rằng không nên xem giá trị của di sản là cái “máy đẻ ra tiền”, càng không thể xem du lịch chỉ là hoạt động giải trí thuần túy. Đây là loại hoạt động hướng vào giáo dục (nhóm cộng đồng là du khách và nhóm cộng đồng là chủ nhân di sản). Vì vậy, du lịch cần được quan tâm phát triển đúng mức, từ đây Pierre đưa ra khái niệm “khách du lịch dân tộc” là cơ sở cho các nghiên cứu về nhân chủng học du lịch.

Donovan D. Rypkema trong bài “Bảo tồn di sản là cơ hội phát triển kinh tế”

[147] cho rằng: bảo tồn di sản không chỉ mang trong nó một giá trị mà đem lại nhiều giá trị: văn hóa, thẩm mỹ, giáo dục, môi trường, xã hội, lịch sử cùng nhiều giá trị khác… Có giá trị được nhắc đến nhiều trong thời gian gần đây là giá trị kinh tế.

Công trình Du lịch văn hóa: Quan điểm toàn cầu và địa phương, Greg Richards [129] thể hiện tính liên ngành giữa du lịch - DTLS - VH - Nhân chủng học


du lịch - Kinh tế học văn hóa, là sự đúc kết từ lý luận đến thực tiễn của nhiều chuyên gia du lịch - văn hóa, đã chỉ ra các sự kiện văn hóa là một cách để PTDL.

Năm 2009, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) xuất bản công trình Tác động của du lịch văn hóa [109] tập trung làm rõ vai trò và tác động của văn hóa và du lịch; các chính sách, chương trình về văn hóa và du lịch; ảnh hưởng của các chính sách văn hóa và thách thức trong PTDL văn hóa với các trường hợp cụ thể: Hàn Quốc, Áo, Ba Lan, Úc, Mexico… khi bảo tồn, phát huy giá trị DTLS- VH gắn với PTDL. Đây là minh chứng sống động, phản ánh quan hệ đa chiều giữa du lịch và văn hóa; cách thức đưa di sản trở thành động lực phát triển kinh tế và gia tăng khả năng cạnh tranh quốc tế ở các nước.

Ở một góc nhìn khác có liên quan đến di tích, phần lớn nghiên cứu tác động của du lịch mới tập trung vào vấn đề môi trường và kinh tế, chỉ đến khi có Chương trình 21 (Agenda 21) của Liên Hiệp Quốc (1992), cách tiếp cận mới về phát triển trên thế giới đã đặt ra vấn đề Phát triển bền vững. Từ đây, mối quan tâm của giới nghiên cứu đến tác động của du lịch, tập trung vào tác động xã hội và văn hóa trong đó có di tích của du lịch ở các cộng đồng dân cư vùng có hoạt động du lịch. Nhiều dự án, đề tài đã đề cập đến chủ đề nóng này, xác định, đánh giá tác động xã hội, xây dựng hệ chỉ báo, tiêu chí đánh giá, dự báo xu hướng… [38].

Ngày nay, các nước đều lấy di sản làm hạt nhân xây dựng chiến lược phát triển KTXH trong đó có du lịch. Trước đây, khai thác sử dụng di sản phục vụ trực tiếp nhu cầu sinh hoạt cộng đồng cư dân bản địa chỉ có di tích là chủ yếu, nguồn thu từ di tích không đáng kể. Hiện nay, di tích không chỉ có chức năng sử dụng kinh phí để duy trì hoạt động thường xuyên, thông qua giá trị chứa đựng ở mỗi di tích còn có hoạt động văn hóa sáng tạo thu hút du khách trong và ngoài nước.

Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu có liên quan đến quản lý DTLS-VH trong mối liên hệ với kinh tế và du lịch, tập trung các vấn đề: lý luận, kinh nghiệm thực tiễn bảo tồn, phát huy giá trị di tích, đề ra giải pháp, kiến nghị cho từng loại hình di tích hướng đến mục tiêu vừa bảo tồn, vừa khai thác, phát huy giá trị di tích.


Tác giả Lê Như Hoa với Quản lý văn hóa đô thị trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đề cập một số hoạt động bảo tồn di tích, thực trạng ảnh hưởng của đô thị hóa đối với di tích ở Hà Nội, Huế… và chỉ rõ, “trong thời kỳ đất nước đang phát triển, hội nhập quốc tế mạnh mẽ DTLS-VH đã được xem là một trong những nguồn lực của sự phát triển chung” [43; tr.71].

Công trình Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Phan Hồng Giang và Bùi Hoài Sơn (đồng chủ biên) [34] đã đề cập đến quản lý văn hóa ở Việt Nam trong đó có quản lý di sản. Ở lĩnh vực này, các tác giả giới thiệu thực trạng quản lý DTLS-VH, bảo tàng và DTLS-VH, từ đó đưa ra giải pháp cho từng lĩnh vực: đầu tư đồng bộ trong bảo tồn, tôn tạo, triển khai quy hoạch chi tiết các di tích để giải quyết hợp lý, hài hòa bền vững… [34; tr.486].

Công trình Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể Thăng Long – Hà Nội, Nguyễn Chí Bền chủ biên [6] đã trình bày, phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn cùng những kinh nghiệm bảo tồn, phát huy giá trị DSVH vật thể Thăng Long – Hà Nội. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc khuyến nghị của UNESCO, kinh nghiệm và những quan điểm mới bảo vệ DSVH của các nước áp dụng vào thực tiễn bảo tồn DSVH vật thể Thăng Long - Hà Nội, đề xuất các nhóm khuyến nghị bảo tồn và phát huy giá trị di tích của thủ đô nhưng có giá trị cho Bến Tre tham khảo.

Vấn đề quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích còn được đề cập trong giáo trình Quản lý văn hóa ở bậc Đại học với Lê Hồng Lý, Dương Văn Sáu, Đặng Hoài Thu, Quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch[72]; Hoàng Sơn Cường, Lược sử quản lý văn hóa ở Việt Nam [18]; Nguyễn Thị Kim Loan (chủ biên) và Nguyễn Trường Tân, Giáo trình Quản lý di sản văn hóa [66]… các công trình này cho rằng PTDL là một biện pháp cơ bản, hữu hiệu giúp quản lý di sản đạt hiệu quả cao. Có tác giả đã nhấn mạnh: “Biến di sản thành hàng hóa thông qua hoạt động du lịch là một quan điểm đúng trong giai đoạn xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay” [72; tr.59]; Tuy nhiên phần lớn có tính đại cương, đưa ra một số khái niệm cơ bản về di sản văn hóa, quản lý di sản văn hóa, các nguyên tắc và nội dung quản lý di sản, vai trò của di sản nói chung đối với sự PTDL


hiện nay… đây chính là các mặt hoạt động của QLDT; chưa đáp ứng yêu cầu tham khảo cho công tác QLDT ở cấp địa phương như Bến Tre. Giáo trình Du lịch văn hóa – Những vấn đề lý luận và nghiệp vụ, Trần Thúy Anh chủ biên [1] trong “Nhận diện và khai thác các giá trị văn hóa vật thể” [1, tr.41] đề cập Đình, Chùa, Đền thờ ở miền Bắc không nói đến miền Nam. Bến Tre chỉ được nhắc đến mờ nhạt khi hướng dẫn kỹ năng nhận diện không gian [1; tr.88] trong hướng dẫn “Nhận diện và khai thác các giá trị văn hóa phi vật thể” [1; tr.80]. Các giáo trình: Tổng quan về du lịch, Vũ Đức Minh [75]; Nhập môn khoa học du lịch, Trần Đức Thanh [100]; Giáo trình tổng quan du lịch, Trần Thị Mai [73] tuy chỉ đề cập đến các vấn đề của hệ thống du lịch như lưu trú, lữ hành, quản trị, marketing và thị trường du lịch hay tâm lý du khách… nhưng có giá trị tham khảo cho QLDT.

Tuyển tập Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, Cục Di sản Văn hóa tập hợp các nghiên cứu từ nhiều góc độ, có tính lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn… có giá trị tham khảo cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị DTLS-VH ở Bến Tre. Quản lý DTLS-VH ở Việt Nam có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đề cập cả 2 phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Các quan điểm QLDT nói chung, di tích được xếp hạng nói riêng đều tập trung vào vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị di tích trong quá trình phát triển. Thể hiện sự chuyển biến trong nhận thức của nhà quản lý văn hóa và bộ máy QLDT ở địa phương về vị trí, vai trò của DTLS-VH khá đầy đủ. Vấn đề là hiện thực hóa nhận thức này ở 1 địa phương cụ thể như Bến Tre như thế nào để QLDT hiệu quả trong PTDL? Do đó, ở mỗi trường hợp cụ thể cần có một quá trình tiếp cận, nghiên cứu phù hợp điều kiện, hoàn cảnh từng địa phương.

Ngoài các công trình nêu trên, nhiều hội thảo được tổ chức hỗ trợ kịp thời cho công tác quản lý di sản hiệu quả hơn như: Hội thảo Di sản văn hóa, Con người và Du lịch do Bộ VHTTDL, Quỹ Á – Âu tổ chức (2001). Hội thảo Sản phẩm văn hoá và phát triển du lịch bền vững (2006); Hội thảo Di sản văn hóa và phát triển du lịch ở miền Trung Việt Nam (2009); Hội thảo Di sản văn hóa Nam Trung bộ với phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế (2011); Hội thảo Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong quá trình hiện đại hóa (3/2013) do Văn phòng UNESCO Hà Nội


phối hợp Bộ VHTTDL tổ chức; Hội thảo 10 năm thực hiện công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO: Bài học kinh nghiệm và định hướng tương lai (6/2013, Quảng Nam) đã bàn đến vấn đề quản lý và bảo tồn DTLS-VH ở Việt Nam nói chung, ở một số di sản lớn nói riêng (Hội An, Huế, Hà Nội, Mỹ Sơn,…); Hội thảo Bộ công cụ thiết kế, triển khai và đánh giá các dự án bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (Hà Nội, 11/2013) do Viện Văn hoá Nghệ thuật quốc gia Việt Nam phối hợp Văn phòng UNESCO Hà Nội tổ chức; Cũng trong năm 2013, ở hội thảo Phát huy giá trị di sản văn hóa đối với phát triển du lịch – Kinh nghiệm từ Hội An do Tổng cục Du lịch và UBND tỉnh Quảng Nam tổ chức, các nhà nghiên cứu đã làm rõ quan điểm tiếp cận và những vấn đề liên quan đến khai thác giá trị kinh tế du lịch của di sản từ kinh nghiệm của Hội An. Hội nghị tổng kết dự án Xây dựng Trạm vệ tinh của Ngân hàng dữ liệu di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc Việt Nam, (Bến Tre, 8/2014) do Viện VHNT quốc gia Việt Nam tổ chức khẳng định: đến nay Việt Nam có một hệ thống sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị di sản phi vật thể thông suốt từ Trung ương đến địa phương. Riêng Trạm Bến Tre đã xây dựng phim tài liệu các nghi lễ, lễ hội, trò diễn, nghề truyền thống… phục vụ nhu cầu tìm hiểu di sản phi vật thể, góp phần tích cực quảng bá di sản phục vụ PTDL Bến Tre. Ở Hội thảo Du lịch cộng đồng, giải pháp PTDL cộng đồng tại Bình Thuận (2015), Nguyễn Ngọc Thơ, Bùi Việt Thành trong bài “Du lịch cộng đồng và kinh nghiệm quốc tế” cho biết: tùy thuộc bản chất và đặc trưng các loại hình tài nguyên dẫn đến sự lựa chọn phương thức phối hợp khác nhau giữa ba nhóm: sinh thái, lịch sử - văn hoá và sự tham gia của cộng đồng, cũng như việc vận dụng lý thuyết & tham vấn cộng đồng. Trong các xu hướng ấy, khu vực Âu – Mỹ thiên về khai thác sự cộng cảm giữa du khách với quá khứ (di sản) và hiện tại (sinh hoạt lễ hội, gặp gỡ - đối thoại với cộng đồng); Khu vực Á, Mỹ La tinh thiên về cung cấp dịch vụ homestay, đưa du khách vào địa vị “người trong cuộc”, “người nhà” [148] ở điểm đến du lịch. Nhiều hội thảo đề cập các vấn đề cơ bản của mối quan hệ giữa quản lý văn hóa và du lịch và một số vấn đề liên quan như: Hội thảo quốc tế Toàn cầu hóa du lịch và Địa phương hóa du lịch (2015), Hội thảo toàn quốc về Phát triển bền vững và du lịch biển đảo


Việt Nam trong thời kỳ hội nhập (2016). Năm 2018 Hội thảo Di sản thế giới và phát triển bền vững trong bối cảnh mới do Bộ VHTTDL, Văn phòng UNESCO và UBND tỉnh Quảng Ninh tổ chức. Ở Hội thảo Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, Huế tháng 6/2018, Nguyễn Phương Hòa trong bài “Cách mạng công nghiệp 4.0 – Cơ hội, thách thức và giải pháp của ngành văn hóa – nghệ thuật Việt Nam” đã nhấn mạnh: “Việt Nam cần có phương thức khai thác giá trị kinh tế từ di sản một cách bền vững và đổi mới sáng tạo để tạo lợi thế cạnh tranh” [12; tr.20]. Hội thảo Giải pháp phát triển du lịch Bến Tre trên cơ sở liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (2019) [115], Hội thảo Chuyên gia 2019 - Xây dựng mạng lưới DTLS-VH phi vật thể Biển; Chủ đề: Truyền thống biển – Thực hành và Tín ngưỡng (2019); tại Hội thảo Quản lý, bảo tồn và phát triển du lịch tại các di sản thế giới ở Việt Nam do UBND tỉnh Ninh Bình tổ chức (10/2019), GS. William Logan cho rằng: Việt Nam đã xây dựng được hệ thống các quy định quốc gia phù hợp thông lệ và cam kết quốc tế, bao gồm Luật Di sản Văn hóa sửa đổi (2009) và Nghị định số 109/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định về bảo vệ và quản lý các DTLS-VH và Thiên nhiên thế giới ở Việt Nam [151]. Hội thảo đã tập trung trao đổi công tác quản lý, bảo vệ các di sản thế giới tại Việt Nam, hợp tác Công – Tư và vai trò của tư nhân trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản. Đồng thời, chia sẻ kinh nghiệm khu vực, quốc tế và đề xuất khuyến nghị về chính sách, cơ chế tăng cường bảo tồn, phát huy giá trị di sản vì sự phát triển bền vững. Tại Hội thảo Cơ hội và thách thức cho ngành Du lịch trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (2018) bà Anya Diekmann đưa ra khuyến nghị ngành Du lịch Việt Nam cần nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực để có thể đáp ứng được yêu cầu PTDL trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 [149]. Tọa đàm Hoàn thiện điểm đến, sản phẩm liên kết du lịch Tp. Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long - tuyến du lịch (2020), Hội thảo khoa học quốc tế 10 năm nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị Di sản thế giới Hoàng thành Thăng Long tại Hà Nội (2020) đã đề cập nhiều lĩnh vực từ nghiên cứu, bảo tồn, bảo quản, phục dựng di tích di vật trong các khu di sản, cũng như kinh nghiệm quản lý đến quảng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/01/2024