Các Công Trình Viết Về Quản Lý Bảo Tàng Và Bảo Tàng Ngoài Công Lập


vật lớn, quý hiếm. Tác giả bài báo đã nhận định: Luật Di sản văn hóa ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi để nhà sưu tập tư nhân Hoàng Long (Thanh Hóa) thành lập được bảo tàng trên cơ sở bộ sưu tập hiện vật phong phú và đa dạng của mình. Bài viết “Bảo tàng tư nhân ở Việt Nam - Bước chuyển mình đầy khó khăn” của tác giả Phạm Thúy Hợp đăng trên tạp chí Di sản văn hóa số 2/2009 [34] đã đề cập đến những thuận lợi, cũng như những trăn trở của các nhà sưu tập tư nhân trong quá trình xây dựng, hình thành bảo tàng. Tác giả bài viết cũng đề xuất một số giải pháp tháo gỡ những khó khăn hay gặp của loại hình bảo tàng ngoài công lập, tuy nhiên những giải pháp này còn nặng về lý thuyết mà thiếu những giải pháp cụ thể, có tính thực tiễn. Trên trang điện tử của Hội Di sản văn hóa, bài viết “Bảo tàng ngoài công lập - Thời cơ, thách thức và giải pháp cho sự phát triển” tác giả Đỗ Văn Trụ [86] đã phân biệt rò bảo tàng công lập và bảo tàng ngoài công lập, ý nghĩa, vai trò của các bảo tàng ngoài công lập trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc. Tác giả Minh Vượng qua bài viết “Bảo tàng ngoài công lập trăn trở tìm hướng phát triển” đăng trên trang tin của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia năm 2015 [88] đã phân tích rất rò những vấn đề, khó khăn mà bảo tàng ngoài công lập đã và đang gặp phải trong quá trình hoạt động, phát triển. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong việc thu hút khách tham quan, tránh thất thoát cổ vật… của một số bảo tàng ngoài công lập như Bảo tàng cổ vật Hoàng Long (Thanh Hoá), Bảo tàng Fito – Bảo tàng y dược tư nhân (TP Hồ Chí Minh), Bảo tàng Đồng Quê (Nam Định)… các bảo tàng ngoài công lập vẫn chưa có một tổ chức bộ máy hoàn chỉnh, chưa thực thi đầy đủ nhiệm vụ theo đúng quy định của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Các bảo tàng hoạt động tự phát là chính nên gặp nhiều khó khăn về kinh nghiệm, phương thức, kinh phí hoạt động, thiếu sự liên kết trong hệ thống nhất là với các bảo tàng công lập dẫn đến thiếu chuyên nghiệp trong nội dung hồ sơ hiện vât, bảo quản hiện vật, trưng bày kém hấp dẫn… Từ những phân tích trên, tác giả có đưa ra những gợi mở như: đẩy mạnh liên kết với bảo tàng công lập (Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên đã làm tốt, kết hợp với Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam trong trưng bày tại bảo tàng), đẩy mạnh hoạt động marketing, phát triển mô hình kinh tế tái phục vụ bảo tàng (Bảo tàng Cội nguồn Phú Quốc), thực thi chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển hệ thống bảo tàng ngoài công lập như: cấp đất cho bảo tàng (Bảo tàng Chiến sỹ cách mạng bị địch bắt và tù đày ở Hà Nội, Bảo tàng Phùng Thị Điểm và Lê Bá Đảng ở Huế…), đưa các sự kiện văn hoá lớn đến với bảo tàng ngoài công lập, tổ chức trưng bày chuyên đề tại các bảo


tàng… nhằm quảng bá, giới thiệu đến với công chúng khách tham quan. “Bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam - Nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới” là một trong những bài viết đáng chú ý về bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam của tác giả Phạm Mai Hùng đăng trên tạp chí Di sản văn hóa, số 1, 2/2016 [43]. Tác giả bài viết đã điểm qua quá trình hình thành và phát triển hệ thống bảo tàng tư nhân thế giới và bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam. Về công tác quản lý bảo tàng ngoài công lập, trên cơ sở phân tích cơ cấu quản lý chung của các bảo tàng tác giả khẳng định “không có sự khác biệt lớn trong công tác quản lý, điều hành và hoạt động giữa bảo tàng tư nhân với các loại hình bảo tàng khác”. Trước xu thế toàn cầu hóa trên thế giới, trong tương lai, hệ thống bảo tàng ngoài công lập lại có cơ hội phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Do đó, vấn đề quản lý và nâng cao chất lượng của hệ thống bảo tàng ngoài công lập sẽ ngày càng thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu và các nhà quản lý văn hóa. Có thể thấy, qua các tác phẩm, bài viết kể trên, hệ thống bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam sau một thời gian hình thành và phát triển, đã đạt được một số thành tựu nhất định, đồng thời bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập về chuyên môn và quản lý. Một số bài viết đề cập đến thực trạng đã và đang diễn ra ở một số bảo tàng ngoài công lập cùng những khó khăn, trăn trở của các nhà sưu tập tư nhân trong quá trình thành lập bảo tàng. Một số công trình khi nghiên cứu các khâu công tác nghiệp vụ tại các bảo tàng ngoài công lập dưới góc độ bảo tàng học đã đề xuất nhiều giải pháp nâng cao chất lượng các hoạt động nghiệp vụ tại đây. Các nguyên tắc, kinh nghiệm quản lý chung đối với các bảo tàng ngoài công lập cũng bước đầu được các tác giả đề cập đến, tuy nhiên vấn đề tổ chức, quản lý hệ thống bảo tàng ngoài công lập còn chưa được quan tâm, chú ý và có những nghiên cứu chuyên sâu. Bài viết Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và sự lan toả phong cách làm bảo tàng mới của tác giả Nguyễn Văn Huy và Lê Thị Minh Lý đăng trong cuốn “Để có một bảo tàng sống động - quan niệm và phương thức hoạt động ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam” năm 2017, hai tác giả có đề cập đến đổi mới trưng bày và hoạt động trong các bảo tàng ngoài công lập, có dẫn chứng các bảo tàng ngoài công lập đã “có sự chuyển mình” như: Bảo tàng Chiến sỹ cách mạng bị địch bắt và tù đày, Bảo tàng Không gian văn hóa Mường, Bảo tàng Y học Fito, Bảo tàng Cội nguồn Phú Quốc và bảo tàng Nguyễn Văn Huyên… Đây là những bảo tàng đã bước đầu đổi mới, chuyển mình và có bảo tàng mới hoàn toàn nội dung và phong cách hiện đại [85]. Từ nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước về bảo tàng và bảo tàng ngoài công lập đã giúp nghiên cứu sinh có được


cái nhìn khái quát về sự hình thành và phát triển của bảo tàng tư nhân/ bảo tàng ngoài công lập trên thế giới cũng như ở nước ta và các mô hình quản lý bảo tàng, chiến lược quản lý nhằm tăng tính bền vững và hiệu quả hoạt động cho các bảo tàng ngoài công lập trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, toàn cầu hóa dẫn đến sự cạnh tranh của các thiết chế văn hóa trong đó có các bảo tàng, đặc biệt là các bảo tàng ngoài công lập.

1.1.2. Các công trình viết về quản lý bảo tàng và bảo tàng ngoài công lập

Các công trình nghiên cứu về quản lý bảo tàng do các tác giả người nước ngoài viết và được dịch ra tiếng Việt về quản lý bảo tàng như cuốn Management and Marketing (Quản lý và tiếp thị) được biên tập bởi Richard Sandell và Robert R. Janes xuất bản lần đầu năm 2007 [96] đưa ra vấn đề sự thay đổi các hình thức quản lý bảo tàng trước thách thức của thế kỷ 21. Các tác giả cũng đưa ra các biện pháp quản lý hiệu quả, chiến lược quản lý hướng đến sự thu hút khách tham quan thông qua các hình thức tiếp thị bảo tàng, tìm hiểu nhu cầu và đáp ứng nhu cầu của từng đối tượng khách tham quan trong bối cảnh kinh tế mới. Bài viết “Museums for visitors: Audience development - A crucial role for successful museum management strategies” (Bảo tàng dành cho khách tham quan: Một nhân tố quan trọng trong thành công của chiến lược quản lý bảo tàng) của Christian Waltl

[98] trình bày ở hội nghị Intercom năm 2006 đã chỉ ra thu hút khách tham quan đến và quay lại bảo tàng là vấn đề sống còn của các bảo tàng. Chiến lược quản lý hiệu quả là phải xây dựng được chương trình hoạt động hiệu quả khiến bảo tàng trở thành một không gian, môi trường học tập, giải trí dành cho nhiều đối tượng khách, đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng của ban giám đốc cũng như nhân viên bảo tàng. Bài viết “Changes in museum management - A custodial or marketing emphasis?” (Sự thay đổi trong quản lý bảo tàng – tập trung vào người giám hộ hay vấn đề tiếp thị) của Audrey Gilmore, University of Ulster, Jordanstown, Northern Ireland, UK và Ruth Rentschler, Deakin University, Melbourne, Australia [90] đưa ra ví dụ về hai phong cách quản lý bảo tàng khác nhau của hai bảo tàng, một ở Úc và một ở Ireland. Bài viết đề cập đến sự thay đổi trong chiến lược quản lý bảo tàng từ lưu giữ truyền thống sang tập trung kết hợp giáo dục với cải thiện, phát triển các dịch vụ trong bảo tàng nhằm đáp ứng yêu cầu của khách tham quan, chiến lược quản lý nhân viên trong bảo tàng, cách thức phối hợp trong các khâu công tác đã tạo nên thành công của bảo tàng. Bài viết “Increasing the Sustainability of Museums - through International Strategy” (Tăng cường tính bền vững của các bảo tàng


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 273 trang tài liệu này.

thông qua Chiến lược toàn cầu hoá) của Izabela Luiza POP và Anca BORZA đăng trên Economia. Seria Management tập 17, số 2, năm 2014 [95]. Bài viết chỉ ra giải pháp nhằm tăng thu nhập, duy trì hoạt động, thực hiện chiến lược phát triển bền vững tại các bảo tàng trong bối cảnh kinh tế khó khăn, trợ cấp từ ngân sách giảm. Thông qua nghiên cứu ba bảo tàng: Guggenheim, Louvre, Hermitage, bài viết cho thấy toàn cầu hóa là yếu tố tạo ra cơ hội cho các bảo tàng tăng tính bền vững bằng cách mở rộng ra thị trường quốc tế. Các bảo tàng có thể xây dựng và phát triển mô hình quản lý và kinh doanh giống công ty tư nhân để tăng doanh thu, sử dụng có hiệu quả hơn di sản văn hóa của quốc gia, tạo uy tín, sự khác biệt cho bảo tàng trước sự cạnh tranh từ các bảo tàng khác.

Cuốn sách “Cơ sở bảo tàng” - Museum basic do hai tác giả Timothy Ambrose và Cripine Paine chủ biên với sự cố vấn của nhiều chuyên gia thuộc Hội đồng Bảo tàng quốc tế - ICOM được Bảo tàng Cách mạng Việt Nam dịch năm 2000. Các tác giả đề cập đến quản lý bảo tàng bao gồm những nội dung cơ bản về: Cơ cấu quản lý, lập kế hoạch và chính sách phát triển, quản lý tài chính, vấn đề gây quỹ cho hoạt động bảo tàng đặc biệt các bảo tàng tư nhân tự túc về nguồn kinh phí, các quy định trong nội bộ bảo tàng, cơ cấu tổ chức, nhân viên và hệ thống tình nguyện viên đến các vấn đề về đào tạo cán bộ và các thủ tục hành chính trong bảo tàng. Cuốn sách Cẩm nang quản lý bảo tàng - The Manual of Museum Management của Barry Lord và Gail Dexter Lord do Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu, hỗ trợ và Phát triển văn hóa dịch, được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho Khóa học mùa hè nghiên cứu và thực hành bảo tàng tổng kết các phương thức quản lý bảo tàng và đưa ra những cách thức quản lý bảo tàng: Nhấn mạnh vai trò điều hành của giám đốc bảo tàng bao gồm: Lập kế hoạch, hình thành chính sách, phê duyệt các thủ tục và phát triển, duy trì mối quan hệ với các cơ quan khác. Việc quản lý bảo tàng còn được thể hiện ở cách thức quản lý các bộ sưu tập hiện vật, quản lý chương trình công chúng, quản lý cơ sở vật chất, quản lý tài chính [3]. Về vấn đề nội dung quản lý bảo tàng, nhiều nhà nghiên cứu trong nước đã có các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: tác giả Lê Thị Minh Lý đã luận giải những nhân tố cơ bản của quản lý bảo tàng giúp cho các bảo tàng có được thành công trong bài viết “Quản lý bảo tàng - Những nhân tố cơ bản để thành công” đăng trên tạp chí Di sản văn hóa số 1/2007 [52]. Kiện toàn và đổi mới quản lý bảo tàng là yếu tố sống còn giúp cho các bảo tàng tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới. Bài viết “Bài học từ thế hệ trước về những

Quản lý các bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam - 3


nguyên tắc của việc quản lý bảo tàng” của tác giả G.Brown Goode đăng trên tạp chí Di sản văn hóa số 1/2013 [24], đã đề cập đến những nguyên tắc chung đối với việc quản lý và cơ cấu tổ chức của các bảo tàng. Tác giả cũng chỉ ra sáu yếu tố quan trọng đối với việc quản lý bảo tàng. Những bài học kinh nghiệm được tổng kết trong lĩnh vực quản lý bảo tàng từ những năm cuối thế kỷ 19 vẫn còn có giá trị đến ngày nay. Tác giả Vũ Mạnh Hà trong bài viết “Bảo tàng trong xu hướng toàn cầu hóa” đăng trên tạp chí Di sản văn hóa số 1/2009 [28] nhấn mạnh đến vấn đề đổi mới toàn diện từ nhận thức, quản lý, các hoạt động trong bảo tàng ở Việt Nam dưới tác động của xu hướng toàn cầu hóa. Vấn đề về luật và chính sách đối với bảo tàng được đề cập trong một số bài viết: “Mười năm thực hiện Luật Di sản văn hóa” của tác giả Nguyễn Thế Hùng trên tạp chí Di sản văn hóa số 40/2012 [40] đánh giá việc xây dựng, ban hành và thực hiện Luật Di sản văn hóa và các văn bản pháp quy về di sản văn hóa và đánh giá kết quả thực thi Luật Di sản văn hóa sau 10 năm ban hành, nhấn mạnh những hạn chế trong tổ chức thực hiện và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu lực của Luật Di sản văn hóa. Bài viết “Mấy vấn đề về chính sách, pháp luật và việc thực hiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực bảo tàng” của tác giả Nguyễn Hữu Toàn đăng trên tạp chí Di sản văn hóa số 45/2013 [73] đã phân tích các nội dung trong các văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa đặc biệt về bảo tàng, chỉ ra những bất cập, hạn chế về chính sách pháp luật trên lĩnh vực bảo tàng, tìm ra giải pháp khắc phục trong thời gian tới. Tác giả Lê Thị Thuý Hoàn trong bài viết Quản lý bảo tàng - Kinh nghiệm từ một số bảo tàng ở Queensland, Úc [33] đã khái quát một số đặc điểm chính trong công tác quản lý bảo tàng ở Queensland như sau: 1. Phương pháp quản lý và vận hành bảo tàng giống như một công ty, doanh nghiệp; 2. Lãnh đạo sự thay đổi (change leadership); 3. Đổi mới phương pháp lập kế hoạch cho chiến lược ngắn hạn, dài hạn;

4. Sáng tạo trong mọi khâu công tác để tạo môi trường trải nghiệm trọn vẹn trong bảo tàng; 5. Sự thay đổi cơ cấu tổ chức của bảo tàng phù hợp với sự phát triển; 6. Vai trò và sự tham gia của cộng đồng vào công tác bảo tàng . Đây là những bài học kinh nghiệm quý báu trong công tác quản lý bảo tàng mà các bảo tàng có thể áp dụng một cách phù hợp vào điều kiện thực tế tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động của mình. Tuy nhiên, đây là vấn đề quản lý các bảo tàng nói chung chứ chưa đề cập đến những vấn đề cốt yếu về mô hình quản lý, cách thức quản lý cũng như một cơ chế quản lý hiệu quả đối với mô hình bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam.


Về các hoạt động quản lý ảnh hưởng đến sự thành công của bảo tàng đặc biệt là bảo tàng ngoài công lập đó là: quản lý nhân lực, truyền thông và quảng bá bảo tàng, xây dựng thương hiệu…Các nhà quản lý, nhà nghiên cứu đã có nhiều bài viết phân tích và làm rò nội dung về vấn đề này. Trong cuốn Bảo tàng - Di tích, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn có hai bài viết đáng chú ý về vấn đề quản lý và phát triển bảo tàng đó là: Bài viết “Marketing và xu thế hội nhập trong hoạt động bảo tàng ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Công Hoan [73] đưa ra nội dung về marketing bảo tàng và vận dụng lý thuyết marketing 4P vào hoạt động marketing bảo tàng như sản phẩm bảo tàng, giá cả của bảo tàng, phân phối sản phẩm bảo tàng và chiêu thị tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến thương mại. Đồng thời đề xuất một số công cụ hỗ trợ cho marketing trong bảo tàng giai đoạn hiện nay. Tác giả Phạm Lan Hương với bài viết “Bảo tàng với việc xây dựng thương hiệu” [73] đã nêu lên vấn đề: Nhiều bảo tàng trên thế giới tạo dựng thành công thương hiệu mang tầm cỡ nhưng đối với nhiều bảo tàng ở Việt Nam, thương hiệu vẫn là vấn đề mới đang được các bảo tàng nghiên cứu triển khai, đổi mới để tạo dựng niềm tin và chỗ đứng nhất định đối với công chúng. Đây cũng là một nội dung cơ bản trong chiến lược quản lý và phát triển bảo tàng, nhất là đối với các bảo tàng ngoài công lập trong tương lai. Bài viết “Quảng bá thương hiệu bảo tàng - Chiến lược marketing của các bảo tàng hiện đại” của hai tác giả Nguyễn Thế Hùng và Nguyễn Hải Ninh đăng trên tạp chí Di sản văn hóa số 59 – 2017 [41], nhấn mạnh vai trò của quảng bá thương hiệu đối với hoạt động bảo tàng, đây chính là hình thức marketing đặc biệt. Quảng bá thương hiệu không chỉ là một hoạt động kết nối công chúng đến tham quan mà còn giúp bảo tàng tự đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, của bảo tàng để điều chỉnh bổ sung thiếu sót. Đây cũng là cơ hội để bảo tàng mở rộng quan hệ với công chúng và khẳng định vị trí của bảo tàng với xã hội. Tác giả Nguyễn Hải Ninh trong bài viết “Vai trò của truyền thông sử dụng mạng xã hội trong hoạt động bảo tàng” tạp chí Di sản văn hóa số 50 – 2015 [55] nhấn mạnh đến các phương tiện truyền thông sử dụng mạng xã hội đang chiếm ưu thế trong đời sống xã hội hiện đại. Tác giả đặt vấn đề “tại sao các bảo tàng cần có chiến lược dùng truyền thông sử dụng mạng xã hội để tiếp cận công chúng và hiệu quả của truyền thông sử dụng mạng xã hội với hoạt động của bảo tàng”. Đây là vấn đề cần được các nhà quản lý bảo tàng đặc biệt là chủ sở hữu bảo tàng ngoài công lập nghiên cứu và sử dụng như một kênh hữu ích để tiếp cận công chúng đặc biệt là công chúng trẻ tuổi và cập nhật xu hướng mới về công nghệ thông tin bắt kịp xu hướng phát triển của xã hội. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các bảo tàng,


một số tác giả tập trung vào các vấn đề về nguồn nhân lực, đổi mới hoạt động. Đáng chú ý có bài viết “Về đào tạo nguồn nhân lực ngành bảo tàng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Thu Hiền đăng trên tạp chí Di sản văn hóa số 57 - 2016 [30], đưa ra một vấn đề quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế và nâng cao chất lượng của các bảo tàng đó là nguồn nhân lực bảo tàng. Tác giả nhấn mạnh thực trạng hoạt động của hệ thống đào tạo ngành bảo tàng và đề xuất giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực ngành bảo tàng ở Việt Nam hiện nay. Tác giả Phạm Định Phong với bài viết “Cần tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các bảo tàng” trên tạp chí Di sản văn hóa số 56 – 2016 [60], nhấn mạnh đến một số công việc tạo nên sự chuyển biến thực sự trong các hoạt động như: “trưng bày, hoạt động dịch vụ, truyền thông, quảng bá, xúc tiến du lịch và về đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực. Bảo tàng cần có sự đổi mới căn bản cả về tư duy và nhận thức trong quá trình tổ chức hoạt động nhằm bắt kịp xu thế phát triển của xã hội, đưa các bảo tàng thực sự là một lựa chọn ưu tiên trong những hình thức học tập, khám phá, vui chơi giải trí, đủ sức hấp dẫn và thoả mãn được nhu cầu đa dạng của công chúng, nhất là thế hệ trẻ” và bài “Phát triển nguồn nhân lực bảo tàng - thực trạng và một số đề xuất” [61] tác giả tập trung vào việc đổi mới quá trình xây dựng và phát triển nguồn nhân lực bảo tàng với sự hình thành những chuyên gia, cán bộ chuyên môn có chất lượng, đáp ứng như cầu phát triển của hệ thống bảo tàng Việt Nam trên cơ sở phân tích thực trạng nguồn nhân lực trong lĩnh vực bảo tàng. Nhìn chung, các bài viết trên đã đưa ra các chiến lược phát triển bảo tàng trong bối cảnh mới từ xây dựng mô hình quản lý, kinh doanh, quản lý nhân sự, phối hợp các khâu công tác tạo cho bảo tàng có sức cạnh tranh với các thiết chế văn hóa khác nhằm thu hút khách tham quan đến bảo tàng, tạo nguồn kinh phí duy trì và phát triển bảo tàng.

1.1.3. Nhận xét

Bảo tàng tư nhân trên thế giới (private museum) hay bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam ra đời là một nhu cầu thực tế của cộng đồng, do đối tượng và phạm vi hoạt động của các bảo tàng ngoài công lập rất phong phú và đa dạng đã tạo ra sức hấp dẫn và thu hút riêng đối với đông đảo công chúng. Sự góp mặt của loại hình bảo tàng ngoài công lập trong hệ thống bảo tàng của mỗi quốc gia là điều tất yếu, khách quan và có xu hướng ngày càng phát triển. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chưa làm rò về vai trò, vị trí, ảnh hưởng và hiệu quả xã hội của hệ thống bảo tàng ngoài công lập trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Tác giả của các công trình này đã phân tích và nêu ra những điểm khác nhau cơ bản giữa bảo tàng công


cộng (công lập) và bảo tàng tư nhân (ngoài công lập) từ cách thức tổ chức, quản lý đến hoạt động nghiệp vụ tại bảo tàng. Một số nghiên cứu về loại hình bảo tàng ngoài công lập đã chỉ ra thực trạng hoạt động, những khó khăn, bất cập trong quá trình hình thành, phát triển, duy trì nguồn kinh phí hoạt động của bảo tàng ngoài công lập ở một số địa phương… đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến, tuy nhiên về chính sách quản lý, sự phân cấp quản lý của các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương, chiến lược phát triển đối với hệ thống bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam còn chưa được đi sâu nghiên cứu, bàn luận.

Các bài viết về quản lý bảo tàng đã đề cập đến các nội dung quản lý trong giai đoạn hiện nay từ ban hành văn bản, chính sách có liên quan đến bảo tàng, cơ cấu tổ chức, đào tạo nhân lực, kinh phí đến các chiến lược marketing, quảng bá, xây dựng thương hiệu bảo tàng. Một số bài nghiên cứu đã xây dựng các mô hình quản lý bảo tàng, chiến lược phát triển nhằm tăng tính bền vững và hiệu quả hoạt động cho các bảo tàng trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn, quá trình toàn cầu hóa dẫn đến sự cạnh tranh của các thiết chế văn hóa trong đó có các bảo tàng, đặc biệt là các bảo tàng ngoài công lập. Tuy nhiên, những nghiên cứu chuyên sâu về loại hình bảo tàng ngoài công lập với ý nghĩa là các đối tượng của công tác quản lý, các cơ chế chính sách tác động đến quá trình hình thành và duy trì hoạt động của các bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam còn rất hiếm hoi. Tóm lại, những vấn đề có liên quan đến công tác quản lý hệ thống bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam mà các nhà nghiên cứu đi trước chưa tiếp cận sẽ là khoảng trống nhất định mà luận án cần đi sâu tìm hiểu, khai thác. Kết quả nghiên cứu của các học giả đi trước sẽ là nguồn tư liệu quan trọng, có nhiều ý nghĩa, giá trị để NCS tham khảo, kế thừa phục vụ cho nghiên cứu của mình.

1.2. Cơ sở lý luận về quản lý bảo tàng ngoài công lập

1.2.1. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1.1. Bảo tàng

Bảo tàng là một thiết chế văn hóa, mặc dù nội hàm không rộng hơn khái niệm văn hóa, nhưng có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo tàng. Trên thế giới, mỗi quốc gia đều có những định nghĩa riêng về bảo tàng. Sự thống nhất một định nghĩa chung về bảo tàng đã được Hội đồng Bảo tàng quốc tế ICOM (The International Council of Museums) xây dựng và liên tục sửa đổi phù hợp bối cảnh và sự phát triển của xã hội. Năm 1946, Đại hội thành lập Hội đồng Bảo tàng quốc tế đưa ra khái niệm bảo tàng như sau: “Bảo tàng bao gồm tất cả các sưu tập trưng bày phục vụ công chúng: các hiện vật về nghệ thuật, kỹ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/06/2022