Ngoài ra, NCS lựa chọn Thành phố Hồ Chí Minh, Đăk Lăk, Huế…là địa bàn nghiên cứu phụ nhằm minh hoạ cho nội dung nghiên cứu.
4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
1. Sự khác nhau giữa bảo tàng công lập và bảo tàng ngoài công lập từ đặc điểm và công tác quản lý?
2. Trong công tác quản lý bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam hiện nay có vấn đề gì cần quan tâm?
3. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của bảo tàng ngoài công lập cần có những giải pháp gì?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Từ sau khi Luật Di sản văn hóa được ban hành năm 2001 với sự ra đời của bảo tàng tư nhân và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 thay thế cụm từ “bảo tàng tư nhân” thành “bảo tàng ngoài công lập”, bảo tàng ngoài công lập đã trở thành bộ phận không thể tách rời của hệ thống bảo tàng Việt Nam. Tuy nhiên, quản lý hệ thống bảo tàng ngoài công lập hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề cần được quan tâm và giải quyết. Từ thực tế đó, Luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu là bảo tàng ngoài công lập do các cá nhân, doanh nghiệp, nhóm người chung sở thích, cùng nghề nghiệp… đứng ra thành lập và tự quản lý điều hành mọi hoạt động của bảo tàng, do đó, có sự khác biệt trong công tác quản lý bảo tàng ngoài công lập và bảo tàng công lập. Trong quản lý các bảo tàng ngoài công lập hiện nay từ mô hình đến các nội dung có vấn đề gì cần quan tâm? Trên cơ sở đặc điểm riêng của bảo tàng ngoài công lập, cần có định hướng và giải pháp phù hợp và mang tính đặc thù từ phía cơ quan quản lý nhà nước và chủ sở hữu bảo tàng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý các bảo tàng ngoài công lập trong tương lai.
5. Phương pháp nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý các bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam - 1
- Các Công Trình Viết Về Quản Lý Bảo Tàng Và Bảo Tàng Ngoài Công Lập
- Quản lý các bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam - 4
- Nội Dung Quản Lý Nhà Nước Đối Với Bảo Tàng Ngoài Công Lập
Xem toàn bộ 273 trang tài liệu này.
5.1. Phương pháp luận
Luận án vận dụng phương pháp luận Mác - Lênin về Chủ nghĩa duy vật lịch sử và Chủ nghĩa duy vật biện chứng, đặc biệt sự vận dụng những nội dung cơ bản về nhận thức để xem xét, đánh giá các sự vật hiện tượng trong quá trình nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xã hội hóa
văn hóa, xã hội hóa hoạt động bảo tồn - bảo tàng, xây dựng và phát triển bảo tàng ngoài công lập trong bối cảnh phát triển đất nước hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận án phân tích, tổng hợp các thông tin liên quan từ các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản nội bộ của bảo tàng ngoài công lập, đồng thời kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, phục vụ thiết thực cho các vấn đề nghiên cứu của luận án. Trong quá trình nghiên cứu, NCS vận dụng phương pháp phân tích những tư liệu thứ cấp vấn đề đặt ra cho công tác quản lý, tổng hợp tư liệu, số liệu, thiết kế bảng biểu có liên quan đến các nội dung để minh chứng cho những nhận định.
- Phương pháp nghiên cứu tư liệu: là phương pháp cần thiết trong quá trình thực hiện luận án nhằm xác định khung nghiên cứu, lên kế hoạch khảo sát thực địa, chọn đối tượng phỏng vấn, phát triển câu hỏi, thông tin cần thu thập từ các cuộc tiếp xúc với chủ sở hữu bảo tàng ngoài công lập, nhà quản lý...
- Phương pháp điền dã tại các địa bàn có bảo tàng ngoài công lập. Đây là phương pháp quan trọng được NCS sử dụng trong quá trình thực hiện luận án. Với phương pháp này, NCS đã thu nhận được nhiều kiến thức và thông tin có liên quan đến đề tài luận án. Phương pháp này được NCS vận dụng trong các thao tác cụ thể: khảo sát thực trạng quản lý bảo tàng ngoài công lập, trao đổi, phỏng vấn sâu đại diện của các cơ quan quản lý nhà nước, các chủ sở hữu và khách tham quan bảo tàng. Để thực hiện được phương pháp này, NCS đã xây dựng các câu hỏi để phỏng vấn, phần trả lời sẽ được ghi lại để trích dẫn vào luận án.
- Phương pháp so sánh: NCS sử dụng phương pháp so sánh các bảo tàng thuộc đối tượng nghiên cứu và so sánh bảo tàng công lập và bảo tàng ngoài công lập; quản lý bảo tàng công lập và bảo tàng ngoài công lập để thấy được những nét riêng cần quan tâm khi tiếp cận nghiên cứu bảo tàng ngoài công lập.
- Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành: Luận án nghiên cứu đề tài dưới góc nhìn quản lý văn hoá. Tuy nhiên, quản lý bảo tàng ngoài công lập là lĩnh vực rộng và cần có những tiếp cận liên ngành như: bảo tàng học, dân tộc học, văn hóa học, lịch sử, quản lý văn hóa, xã hội học, mỹ thuật học... để giải quyết những vấn đề cơ bản của đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia (các nhà quản lý, chủ sở hữu bảo tàng, các chuyên gia về bảo tàng…) thực hiện phương pháp này luận án sẽ thu thập được thông
tin từ các chuyên gia, các nhà khoa học chuyên ngành quản lý di sản văn hóa, các cán bộ chuyên môn về bảo tàng học, quản lý bảo tàng cũng như các thiết chế văn hóa khác, các nhà sưu tập tư nhân. Thông tin thu thập được từ phương pháp này sẽ cung cấp cái nhìn đa chiều hơn về vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở đó, thu thập ý kiến, nhận định, đánh giá về thành lập, hoạt động và phương hướng phát triển của bảo tàng ngoài công lập, các giải pháp nhằm tăng cường tính chuyên nghiệp, nâng cao năng lực hoạt động, xây dựng cơ chế chính sách của Nhà nước đối với bảo tàng ngoài công lập cho phù hợp với giai đoạn hiện nay.
6. Đóng góp của luận án
6.1. Luận án là công trình khoa học nghiên cứu tổng thể về thực trạng tổ chức quản lý các bảo tàng ngoài công lập, các cơ chế chính sách tác động đến quá trình hình thành và duy trì hoạt động của các bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam.
6.2. Luận án góp phần nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, ảnh hưởng và hiệu quả xã hội của hệ thống bảo tàng ngoài công lập.
6.3. Luận án góp phần giải quyết những vấn đề còn tồn tại, bất cập trong quá trình thành lập và hoạt động bảo tàng.
6.4. Là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý văn hoá, quản lý bảo tàng trong việc hoạch định chính sách quản lý, phát triển hệ thống bảo tàng của Việt Nam, đồng thời là tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo ngành bảo tàng học và quản lý văn hoá.
6.5. Luận án tổng kết và hoàn thiện khái niệm về quản lý bảo tàng ngoài công lập, góp phần bổ sung về mặt học thuật cho chuyên ngành quản lý văn hoá
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận án gồm 03 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát về các bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý các bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam
Chương 3: Xu hướng phát triển và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý các bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ KHÁI QUÁT VỀ CÁC BẢO TÀNG NGOÀI CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về bảo tàng ngoài công lập của các học giả nước ngoài và Việt Nam
1.1.1.1. Về bảo tàng ngoài công lập ở một số quốc gia trên thế giới
Chúng ta nhận thấy đến nay tìm hiểu về bảo tàng ngoài công lập (Private museums) ở các nước trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu được xuất bản. Trong cuốn “Cơ sở bảo tàng” - Museum basics của hai tác giả Timothy Ambrose và Cripine Paine chủ biên với sự cố vấn của nhiều chuyên gia thuộc Hội đồng Bảo tàng Quốc tế - ICOM được Bảo tàng Cách mạng Việt Nam dịch năm 2000, các tác giả cuốn sách phân loại bảo tàng theo đối tượng chủ quản bao gồm: Các bảo tàng trung ương, các bảo tàng địa phương, các bảo tàng của trường đại học, các bảo tàng quân đoàn, các bảo tàng của các cơ quan thương mại và có đề cập đến loại hình bảo tàng tư nhân hoặc hoạt động độc lập (Independent or Private museum) [72]. Loại hình bảo tàng tư nhân cũng được đề cập đến trong cuốn “Cơ sở Bảo tàng học Trung Quốc” do Vương Hoằng Quân chủ biên xuất bản năm 1990, được Cục Di sản Văn hóa dịch và xuất bản năm 2008. Nội dung cuốn sách có một phần giới thiệu về bảo tàng tư nhân và đưa ra một số thông tin về mô hình sở hữu loại hình bảo tàng này từ khi bắt đầu xuất hiện ở Trung Quốc “Trong số đó, các bảo tàng dân lập, như: Bảo tàng Nghệ thuật Viêm Hoàng được Nhà nước giúp đỡ xây dựng ở Bắc Kinh, Bảo tàng Tử Đàn Trung Quốc do doanh nghiệp tư nhân bỏ vốn xây dựng, Bảo tàng Máy tính do một nhà sưu tập tư nhân Thượng Hải xây dựng… đều là những bảo tàng tư nhân mới được xây dựng gần đây. Số lượng bảo tàng tư nhân chưa nhiều nhưng đã phản ánh được sự tồn tại của các hình thức sở hữu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây cũng là bước phát triển mới của việc Nhà nước, tập thể, cá nhân cùng thúc đẩy sự nghiệp bảo tàng” [67, tr.163]. Cuốn “Sự nghiệp bảo tàng của nước Nga” do Kaulen
M.E chủ biên - Viện Văn hóa Nga, Bộ Văn hóa Liên bang Nga xuất bản được Cục Di sản Văn hóa phối hợp với Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tổ chức dịch và phát hành năm 2006. Cuốn sách có hai phần lớn: Phần I: Lịch sử phát triển của bảo tàng, Phần II: Sự nghiệp bảo tàng hôm nay và ngày mai. Trong phần thứ nhất các tác giả đã giới
thiệu về lịch sử phát triển của bảo tàng trên thế giới, đặc biệt đi sâu vào lịch sử bảo tàng ở Nga, trong đó ở chương II các tác giả giới thiệu các sưu tập cổ vật tư nhân thời kỳ Phục hưng ở châu Âu - đây cũng có thể coi là các bảo tàng tư nhân. Phần I của chương IV cuốn sách giới thiệu về thực trạng bảo tàng ở nước Nga những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI với các loại hình khác nhau trong đó có loại hình bảo tàng tư nhân. Các tác giả cuốn sách đã đưa ra nhận định xu hướng phát triển của loại hình bảo tàng tư nhân “Sự khôi phục bảo tàng tư nhân là dấu hiệu đặc trưng của ngày nay”. Bên cạnh đó các tác giả cũng giới thiệu một loại bảo tàng tương tự như bảo tàng tư nhân đó là bảo tàng và bộ sưu tập của các nghiệp đoàn [50]. Cuốn Cẩm nang quản lý bảo tàng - The Manual of Museum Management của Barry Lord và Gail Dexter Lord do Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu, hỗ trợ và Phát triển văn hóa dịch, được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho Khóa học mùa hè nghiên cứu và thực hành bảo tàng có đề cập đến hình thức sở hữu tư nhân tập trung vào nội dung về cơ cấu tổ chức của bảo tàng tư nhân “Điều hành trực tiếp bởi các tư nhân, tổ chức hay công ty. Những bảo tàng này có thể được hoạt động như những tổ chức từ thiện tư nhân hoặc có thể nhằm kiếm lợi nhuận. Nguồn quỹ cho các bảo tàng tư nhân trực tiếp lấy từ chính những nhà sở hữu và từ những nguồn thu có được. Giám đốc thường được tuyển bởi người sở hữu, cũng có thể là người được bổ nhiệm bởi một ban hay uỷ ban cố vấn. Nhân viên là những người được tuyển dụng của công ty tư nhân hay cá nhân. Các tình nguyện viên rất hiếm” [3].
Tác giả Sharon Macdonald trong cuốn “A Companion Museum studies” (Một nghiên cứu về bảo tàng) (năm 2006 ấn hành bởi nhà xuất bản Blackwell) đã nghiên cứu hệ thống bảo tàng công và tư, từ đó chỉ ra sự khác biệt giữa hai loại hình bảo tàng này. Trên cơ sở nghiên cứu công tác quản lý hoạt động tại các bảo tàng ở châu Âu và Mỹ, tác giả đã cho thấy cơ cấu sở hữu công - tư có tác động rất lớn trong quản lý bảo tàng, vấn đề cạnh tranh giữa các bảo tàng nhằm thu hút tối đa lượng khách tham quan, các khoản trợ cấp công, sự đóng góp tài trợ. Các chính sách ưu đãi về thuế của chính phủ đối với các nhà tài trợ cho bảo tàng cũng được nêu lên trong cuốn sách. Tác giả cũng đề cập đến nhu cầu đối với các bảo tàng gồm cá nhân khách tham quan và từ chính xã hội, từ đó chỉ ra các yếu tố quyết định sự thay đổi nhu cầu, yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu tham quan của khách. Từ quan điểm kinh tế, tác giả Sharon Macdonald đã nêu ra bốn công việc quan trọng có ảnh hưởng đến hoạt động bảo tàng đó là chất lượng của sưu tập, giá vé, các cuộc triển lãm đặc
biệt, sự tiện nghi và dịch vụ phụ trợ dành cho khách [97]. Bài viết “Museums between private and public the case of the Beyeler museum in Basle” (Sự khác biệt giữa bảo tàng tư nhân và công cộng – trường hợp của bảo tàng Beyeler ở Basle) của Bruno S. Frey and Stephan Meier đăng trên tạp chí của Viện Nghiên cứu thực nghiệm về kinh tế - Đại học Zurich số 16 tháng 6 năm 2002 đã nghiên cứu trường hợp của bảo tàng tư nhân Beyeler ở Basel - Thụy Sỹ. Đây là bảo tàng mới được thành lập năm 1997 dựa trên cơ sở của một sưu tập nghệ thuật gồm 170 tác phẩm có giá trị của nhà sưu tập tư nhân Ernst Beyeler. Đây được coi là bảo tàng thành công nhất ở Thụy Sỹ về số lượng khách truy cập trực tuyến và số lượng khách tham quan bảo tàng. Tác giả đã phân tích nguyên nhân làm nên sự thành công của bảo tàng đến từ bốn yếu tố, đó là áp dụng mô hình kết hợp quản lý công trên cơ sở sưu tập tư nhân, tổ chức các triển lãm đặc biệt trên cơ sở các sưu tập hiện vật có giá trị, đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ trong và ngoài bảo tàng, phát triển các tiện ích tạo thuận lợi cho khách tham quan và linh hoạt chủ động, toàn quyền trong các quyết định tăng nguồn kinh phí cho hoạt động bảo tàng. Bảo tàng này là một ví dụ điển hình của mô hình bảo tàng tư nhân có thể chủ động nguồn kinh phí và phát triển hoạt động bảo tàng hiệu quả [92]. Năm 2008, trong bài viết Hệ thống Bảo tàng ở Nhật Bản đăng trên tạp chí Di sản văn hóa, số 4 [32], tác giả Lê Thị Thúy Hoàn đã trình bày những nhận thức bước đầu khi tiếp cận hệ thống bảo tàng ở Nhật Bản. Thông qua sự phân tích về chủ thể quản lý, về nội dung và giải pháp trưng bày, về nhân lực tham gia hệ thống bảo tàng các cấp ở Nhật Bản, tác giả bài viết đã phác họa một bức tranh toàn cảnh về hệ thống bảo tàng ở Nhật Bản cùng với xu thế phát triển tất yếu của loại hình bảo tàng ngoài công lập ở các nước phát triển trên thế giới. Nhìn chung, dù có lịch sử xuất hiện khá sớm và có mặt ở nhiều nước phát triển trên thế giới nhưng loại hình bảo tàng tư nhân (bảo tàng ngoài công lập) chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức, chưa có bất kỳ công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về loại hình bảo tàng tư nhân được công bố. Những nhận thức về loại hình bảo tàng ngoài công lập (bảo tàng tư nhân) ở các nước nêu trên thể hiện trong nội dung các cuốn sách còn khá sơ lược, chưa đi sâu vào phân tích điều kiện, bối cảnh lịch sử ra đời, những đặc điểm của loại hình bảo tàng này cũng như phương thức quản lý, cách điều hành và tổ chức hoạt động bảo tàng tư nhân ở các nước… Do còn nhiều khoảng trống trong công tác nghiên cứu loại hình bảo tàng ngoài công lập trong và ngoài nước nên nghiên cứu sinh đã gặp khá nhiều khó khăn khi tìm kiếm các nguồn tư liệu so sánh loại hình bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam với các nước khác, cũng như việc tham khảo, học hỏi kinh nghiệm quản lý loại hình bảo tàng này từ các nước trên thế giới còn nhiều hạn chế.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam
Ở Việt Nam, bảo tàng tư nhân chính thức ra đời từ sau khi Luật Di sản văn hóa được ban hành năm 2001 và được sửa đổi, bổ sung với tên gọi bảo tàng ngoài công lập từ năm 2009, vì vậy, việc nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn về hoạt động của loại hình bảo tàng này chưa được đề cập trong các công trình nghiên cứu trước đây. Từ sau khi những bảo tàng tư nhân hay bảo tàng ngoài công lập đầu tiên được thành lập và đi vào hoạt động thì các nhà nghiên cứu trong nước bắt đầu quan tâm nghiên cứu vấn đề này.
Hai công trình khoa học của tác giả Trần Đức Nguyên đã được nghiệm thu, đó là đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2011 “Nghiên cứu thực trạng hoạt động cho các bảo tàng tư nhân ở Hà Nội hiện nay” [57] và đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Các giải pháp nhằm phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của các bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam” (2014) [58]. Dưới góc độ Bảo tàng học, tác giả của hai công trình nói trên đã đánh giá thực trạng các công tác chuyên môn nghiệp vụ của 17 bảo tàng ngoài công lập, tác giả đề xuất giải pháp để nâng cao chất lượng các hoạt động nghiệp vụ của bảo tàng. Có thể nói, đây là hai công trình nghiên cứu quan trọng về loại hình bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam, có đóng góp về mặt khoa học khi công bố kết quả điều tra nghiên cứu thực trạng số lượng, chất lượng hoạt động và đánh giá vai trò của bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam (giai đoạn 2006 - 2013) cũng như đề xuất nhiều giải pháp nhằm nâng cao hoạt động chuyên môn từ đó góp phần cho việc nghiên cứu xây dựng cơ chế, hoạch định chính sách quản lý và phát triển hệ thống bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai công trình nêu trên về cơ bản mới chỉ tập trung chủ yếu đề cập đến các hoạt động nghiệp vụ của bảo tàng dưới góc độ nghiên cứu bảo tàng học chứ chưa nghiên cứu về vấn đề tổ chức, quản lý đối với hệ thống bảo tàng ngoài công lập. Tác giả luận án tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên cứu của hai công trình trên. Những vấn đề mà hai tác giả còn bỏ ngỏ nghiên cứu sinh mạnh dạn trình bày trong luận án của mình.
Một số bài viết đăng trên các tạp chí, website chuyên ngành di sản văn hóa về bảo tàng ngoài công lập của tác giả Phạm Quốc Quân: “Bảo tàng tư nhân Việt Nam trước thách thức của quy chế” đăng trên website của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch [62] đã chỉ ra một số điểm trong quy chế chưa phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam. Tác giả đưa những kiến giải và đề xuất những ý kiến giúp cho những nhà quản lý linh hoạt xử lý những vấn đề trong quy chế sao cho sát với thực tiễn của từng địa phương, “Sưu tập cổ
vật tư nhân - 10 năm nhìn lại” đăng trên tạp chí Di sản văn hóa, số 2 [64] đã tổng kết lại những thành tựu đạt được của quá trình xã hội hóa các sưu tập tư nhân sau một thập kỷ ban hành Luật Di sản văn hóa, phân tích những hạn chế và bất cập trong hoạt động quản lý các sưu tập tư nhân, từ việc đăng ký cổ vật, trao đổi, mua bán, tặng cổ vật giữa các nhà sưu tập trong và ngoài nước… Theo quan điểm của tác giả, cần có sự điều chỉnh và định hướng từ cả hai phía: chủ các sưu tập tư nhân và các cơ quan quản lý Nhà nước. Vai trò quản lý Nhà nước đối với các sưu tập tư nhân được đánh giá rất quan trọng trong việc tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ cho những người làm công tác bảo tồn di sản văn hóa, xây dựng các tiêu chí để kiểm kê, đánh giá, phân loại các sưu tập tư nhân, quy định về nghĩa vụ, quyền lợi của các chủ sở hữu sưu tập cũng được đề cập đến. Bài viết “Bảo tàng tư nhân Hà Nội - Thực tại và tiềm năng” đăng trên tạp chí Thế giới Di sản số tháng 6 năm 2015 [65] tác giả Phạm Quốc Quân đã chỉ ra những tiềm năng còn ẩn chứa để phát triển hệ thống bảo tàng ngoài công lập ở Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Sự đa dạng và phong phú về loại hình cũng như nội dung trưng bày chính là một trong những thế mạnh thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của các bảo tàng ngoài công lập ở Hà Nội: Bên cạnh đó, sự nhất quán trong đường lối, chủ trương xã hội hóa các loại hình bảo tàng của lãnh đạo thành phố, lãnh đạo ngành văn hóa các cấp cũng là một trong những yếu tố quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để các loại hình bảo tàng ngoài công lập ra đời và phát triển. “Bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam, thành tựu - bất cập và giải pháp” tại Hội thảo khoa học “Di sản văn hóa với Chiến lược phát triển bền vững” năm 2017 [66], tác giả đã nêu lên những thành tựu bước đầu của hệ thống bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu đã đạt được thì bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập.Từ đó, tác giả đưa ra nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bảo tàng ngoài công lập. Đây là những nhóm giải pháp theo tôi là rất thực tiễn và khả thi để các bảo tàng có thể áp dụng đặc biệt là các giải pháp về cơ chế chính sách của Nhà nước cần thống nhất đồng bộ từ trung ương đến địa phương để tạo điều kiện cho sự nghiệp phát triển bảo tàng ngoài công lập, thực hiện được vai trò trong sự nghiệp phát triển chung của bảo tàng Việt Nam tương lai.
Bài viết “Bảo tàng cổ vật tư nhân - Mấy suy nghĩ từ trường hợp Bảo tàng cổ vật Hoàng Long (Thanh Hóa)” của tác giả Hoàng Xuân Chinh đăng trên tạp chí Di sản văn hóa số 1/2008 [15] đã giới thiệu một trong những bảo tàng ngoài công lập có số lượng cổ