Quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong phát triển du lịch nông thôn theo hướng bền vững: Nghiên cứu trường hợp tỉnh Lâm Đồng - 2


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Tổng hợp khái niệm du lịch nông thôn 36

Bảng 2.2: Phân biệt du lịch nông thôn và du lịch đô thị 38

Bảng 2.3: Phân biệt du lịch nông nghiệp và du lịch nông thôn 40

Bảng 2.4: Các loại hình du lịch nông thôn 41

Bảng 3.1: Lý do chọn địa bàn nghiên cứu 54

Bảng 3.2: So sánh những đặc điểm đặc trưng của hai địa bàn nghiên cứu 57

Bảng 3.3: Mô tả các bên liên quan tham gia phỏng vấn 63

Bảng 3.4: Ví dụ về định nghĩa các mã khi phân tích 68

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.

Bảng 4.1: Tổng hợp các những hạn chế hợp tác giữa các bên liên quan trong PTDLNT tại hai huyện 143


Quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong phát triển du lịch nông thôn theo hướng bền vững: Nghiên cứu trường hợp tỉnh Lâm Đồng - 2

DANH MỤC HÌNH


Hình 2.1: Khái quát các loại hình du lịch nông thôn 42

Hình 2.2: Khung nghiên cứu đề xuất 51

Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu 53

Hình 3.2: Mã hóa và tổ chức dữ liệu 70

Hình 4.1: Một số hoạt động du lịch huyện Lạc Dương 75

Hình 4.2: Dệt lụa và hàng lưu niệm từ tổ kén 76

Hình 4.3: Một số hoạt động du lịch tại huyện Lâm Hà 77

Hình 4.4: Biệt thự và bộ sưu tầm nhạc cụ của các trưởng nhóm cồng chiêng 122

Hình 4.5: Đồ thị các nhân tố thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong PTDLNT 141

Hình 4.6: Các nhân tố hạn chế quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong PTDLNT 142

Hình 5.1: Khung nghiên cứu về hợp tác giữa các bên liên quan trong PTDLNT theo hướng bền vững 153


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU

1.1. Sự cần thiết nghiên cứu

1.1.1. Về lý luận

Phát triển du lịch nông thôn (PTDLNT) nói chung và PTDLNT bền vững nói riêng đang ngày càng được chú ý quan tâm hơn của nhiều nhà nghiên cứu (Lane, 1994; Gartner, 2005; Cawley và Gillmor, 2008; Aylward và Kelliher, 2009; Ertuna và Kirbas, 2012; Ghader và Henderson, 2012; Ghasemi và Hamzah, 2014; Adeyinka-Ojoa và cộng sự, 2014; Fun và cộng sự, 2014; Lo và cộng sự, 2014). PTDLNT có sự khác biệt so với một số loại hình du lịch khác. Du lịch nông thôn (DLNT) được tổ chức ở phạm vi lãnh thổ vùng nông thôn (Lane 1994, OECD, 1994; Briedenhann và Wickens; 2004; Sharpley và Jepson, 2011; Chuang, 2013) và thường gắn với các điều kiện hạn chế nhất định (khoảng cách, cơ sở hạ tầng, nhân lực,...). Do đó các bên liên quan tham gia trong PTDLNT cũng rất đa dạng, nhiều thành phần khác nhau và năng lực tham gia (hiểu biết, nhận thức, trình độ, kỹ năng,...) cũng khác nhau (Lane, 1994; OECD, 1994; Jamal và Getz, 1995; Aas và cộng sự, 2005; D'Angella và Go, 2009; Fong và Lo, 2015). Đây cũng là điều kiện thuận lợi và cũng là thách thức của quá trình hợp tác trong PTDLBV (Jamal và Getz, 1995; Byrd, 2007). Nhiều nghiên cứu đã xác nhận phát triển bền vững (PTBV) là quan điểm, mục tiêu và là phương pháp tối ưu để đạt được lợi ích cân bằng tốt nhất cho các bên tham gia và cho điểm đến về kinh tế, văn hóa-xã hội và môi trường (WTO, 2004, Choi và Murray, 2010; Fons và cộng sự, 2011; Fun và cộng sự, 2014; Kadi và cộng sự, 2015, García, 2015). Một số nghiên cứu chỉ ra để PTDLBV cần có thêm yếu tố quan trọng nữa là thúc đẩy sự tham gia và hợp tác giữa các bên liên quan (HTCBLQ) (Jamal và Getz, 1995; Zach và Racherla, 2011; Kadi và cộng sự, 2015; Fong và Lo, 2015). Do đó, hợp tác như là một nhân tố cơ bản cho sự PTBV của điểm đến, đặc biệt trong các quốc gia đang phát triển (Aas và cộng sự, 2005; Byrd, 2007; Ritchie và Sheehan, 2010; Wondirad và cộng sự, 2020).

HTCBLQ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung và PTDL nói riêng. Khi có hợp tác, lợi ích được chia sẻ cho cả cá nhân và tập thể (Jamal và Getz, 1995, Yuksel và cộng sự, 1999, Andereck và Vogt 2000, Wang và Xiang, 2007) và hợp tác sẽ giúp tổng hợp các nguồn lực, giúp các thành viên cùng nhau làm việc và có thể mang đến lợi ích lớn hơn (Jamal và Getz 1995, Maiden, 2008). Nhờ vào hợp tác, bên yếu thế sẽ có cơ hội, có quyền đóng góp ý kiến trong quá trình hoạch định chính sách du lịch, được tham gia bình đẳng hơn, nhờ vậy các chủ thể sẽ hiểu nhau


hơn và lợi ích chia sẻ công bằng hơn, hoặc hợp tác có thể giảm thiểu hoặc tránh được các xung đột hoặc mâu thuẫn đối lập giữa các bên (Yuksel, Bramwell và cộng sự, 1999). Hợp tác cũng giúp xây dựng kho tàng kiến thức về hiểu biết, chia sẻ thông tin, giúp đỡ lẫn nhau và nâng cao khả năng tham gia của các bên liên quan (Bramwell và Sharman, 1999; Dredge 2006, Presenza và Cipollina, 2009; Lemmetyinen và Go, 2009; Arnaboldi và Spiller, 2011) và nâng cao khả năng ra quyết định (Yuksel và cộng sự, 1999). Tuy nhiên, HTCBLQ không dễ thực hiện vì quan hệ đó rất phức tạp và phụ thuộc vào nhiều bên liên quan (Yodsuwan, 2010).

Một số nghiên cứu đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác. Bramwell và Sharman (1999) đã nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến HTCBLQ. Theo đó, các nhân tố bao gồm phạm vi của đối tác, mức độ tương tác giữa các đối tác thích hợp (tần xuất hoạt động) và mức độ đồng thuận các vấn đề quan trọng. Vernon và cộng sự (2005) đã kế thừa nghiên cứu của Bramwell và Sharman (1999) về hợp tác cho thực hiện chính sách, và bổ sung các nhân tố rào cản ảnh hưởng đến PTDLBV, bao gồm tầm quan trọng của quản trị khu vực công trong thúc đẩy đổi mới hợp tác, sự tham gia công bằng và vai trò của các thành viên, thời gian hợp tác. Theo đó, sự mất cân bằng quyền lực thường tập trung vào những nhà cầm quyền ảnh hưởng đến quá trình hợp tác và làm hạn chế khả năng tham gia của các bên liên quan. Fyall và cộng sự (2003) đã cho rằng sự tham gia trong HTCBLQ có thể tạo ra cả các quan hệ tích cực và xung đột. Do đó, các bên liên quan du lịch nên xây dựng niềm tin và sự tôn trọng lẫn nhau, nếu không đạt được thì hợp tác sẽ thất bại (Robert và Simpson, 1999). Trong nghiên cứu của mình, Wondrad và cộng sự (2020) đã ứng dụng phương pháp nghiên cứu định tính để chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến HTCBLQ trong PTDL sinh thái, và tập trung vào CQĐP cấp vùng và địa phương; CĐĐP và DNDL sinh thái tư nhân và tổ chức phi chính phủ. Nghiên cứu đã chỉ ra mười nhân tố cản trở HTCBLQ tại miền Nam Ethiopia. Theo đó, các nhân tố bao gồm 1) công tác quản trị du lịch không đầy đủ, 2) hạn chế nhận thức của các bên liên quan về hợp tác, 3) nền tảng văn hóa xã hội, 4) hạn chế nguồn lực, 5) thiếu niềm tin, hiểu biết lẫn nhau, 6) thiếu thảo luận hiệu quả và hạn chế giao tiếp, 7) hạn chế về quy mô của khu vực du lịch sinh thái, CĐĐP ít quan tâm và quy mô doanh nghiệp nhỏ, 8) mất cân bẳng lợi ích và cạnh tranh không lành mạnh, 9) xung đột quyền lực và 10) xung đột giữa các bộ tộc. Nghiên cứu của Ma và cộng sự (2020) đã sử dụng nghiên cứu định tính với phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc và quan sát không tham dự về quan hệ hợp tác hoặc đối đầu trong thu hồi đất đai cho PTDLNT, giữa bộ ba mối quan hệ gồm CQĐP, người dân địa phương và các nhà phát triển với tư cách là các bên liên quan thu hồi đất cho PTDLNT. Kết


quả nghiên cứu đã chỉ ra có sự liên minh giữa CQĐP và nhà phát triển trong quá trình thu hồi đất đai vì lợi ích đan xen còn người dân địa phương không tìm được liên minh chống lại những sự thu hồi này và họ chính là đối tượng dễ bị tổn thương trước sự PTDLNT. Nhìn chung, các nghiên cứu cho thấy, mặc dù HTCBLQ giúp thúc đẩy lợi ích và nhiều cơ hội cho PTDLBV, nhưng không dễ dàng hình thành các nhóm hợp tác và đạt được sự đồng thuận về sự bền vững bởi mỗi bên liên quan có quan điểm và sự quan tâm khác nhau.

Ở trong nước, nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Thủy (2017) đã xác định mối quan hệ hợp tác cho PTDLBV tại điểm đến Đà Nẵng, tập trung vào loại hình du lịch biển mà không phải là DLNT. Một số nghiên cứu về bên liên quan trong lĩnh vực tranh chấp đất đai (Nguyễn Văn Thắng, 2017), hoặc sự tham gia của người dân vào chính sách công dưới ảnh hưởng của mạng xã hội (Huỳnh Ngọc Chương, 2016). Có thể thấy nghiên cứu về quan hệ hợp tác trong PTDL theo hướng bền vững ở nước ta vẫn còn rất mới mẻ. Do đó, hướng nghiên cứu này còn nhiều khuyết thiếu về nội dung, địa bàn và kết quả nghiên cứu.

Như vậy có thể thấy, phần lớn các nghiên cứu trước đây về HTCBLQ đều chỉ rõ tầm quan trọng của hợp tác (Byrd, 2007; Franco và Estevão; 2010; Jung và cộng sự, 2015; Hu và cộng sự, 2019) và một số nhân tố thúc đẩy hoặc cản trở sự hợp tác (Wondirad và cộng sự, 2020; Ma và cộng sự, 2020). Như vậy, phần lớn các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các nội dung riêng lẻ về hợp tác mà thiếu đi các nghiên cứu mang tính tổng hợp do đó các nghiên cứu đã không giải thích thỏa đáng và đầy đủ về quan hệ HTCBLQ. Đồng thời, sự khác biệt trong tư duy và chuẩn mực giá trị của các bên, đặc biệt trong điều kiện hợp tác có người dân tộc thiểu số còn ít được khai thác, đặc biệt trong bối cảnh điểm đến DLNT. Ngoài ra, hợp tác trong điều kiện trình độ kinh tế, nhận thức còn hạn chế và thể chế xã hội chủ nghĩa như ở nước ta thì chưa được nghiên cứu kỹ. Hơn nữa, nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính vì nghiên cứu này tập trung vào nghiên cứu nhận thức, hiểu biết của các bên liên quan về quan hệ hợp tác giữa họ, nên phương pháp định tính được sử dụng là phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài.

1.1.2. Về thực tiễn

Trên thế giới, quá trình PTDLNT khá lâu dài, chẳng hạn từ những năm 1950 tại Pháp (Fleischer và Pizam, 1997) hoặc năm 1980 tại Mỹ (Wilson và cộng sự, 2001). Theo Wilson và cộng sự (2001), ban đầu do khủng hoảng nông nghiệp đã dẫn tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế các vùng nông thôn bằng các hoạt động phi nông nghiệp. Đây là một trong


những chiến lược PTDLNT để gia tăng thu nhập cho người nông dân và duy trì sự phát triển kinh tế nông thôn (Wilson và cộng sự, 2001). Ở giai đoạn đầu, DLNT được phát triển chủ yếu dưới hình thức PTDL tại các trang trại, nông trại với việc tổ chức sắp xếp lại các hoạt động sản xuất gắn với thu hút du khách đến tham quan trải nghiệm. PTDLNT đã mang lại thu nhập, tạo ra công ăn việc làm và giúp tiêu thụ nông sản cho người dân tham gia vào hoạt động du lịch (OECD, 1994; Fleischer và Pizam, 1997; Wilson và cộng sự, 2001; Sharpley, 2002; Su, 2011). Do tầm quan trọng về kinh tế và xã hội nên PTDLNT bắt đầu từ Châu Âu đã lan tỏa phạm vi toàn thế giới với sự hỗ trợ của chính phủ về các chính sách ở tầm vĩ mô như quy hoạch, tài chính, luật pháp, thương mại và quảng cáo (Wilson và cộng sự, 2001; Su, 2011). Ở nhiều quốc gia, sáng kiến PTDLNT đã được đưa ra bởi chính phủ (Wilson và cộng sự, 2001). Năm 1950, Chính phủ Pháp đã có sáng kiến về dự án ―nhà nghỉ nông thôn‖ để giảm tỷ lệ dân di cư từ vùng nông thôn đến các trung tâm đô thị. Ở các vùng nông thôn của nước Anh, chính phủ đầu tư phát triển công viên và lâu đài như nền tảng hạ tầng cho DLNT và đã hỗ trợ tài chính cho nông dân. Ở Mỹ, Chính phủ đã khuyến khích người nông dân xem du lịch trang trại như là phương tiện để gia tăng thu nhập và hỗ trợ cho họ thiết lập các trang trại du lịch (Fleischer và Pizam, 1997). Như vậy, có thể nhận thấy đối với các quốc gia phát triển, PTDLNT có vai trò rất quan trọng, đồng thời PTDLNT cũng luôn nhận được sự quan tâm đầy đủ về chính sách từ Chính phủ giúp thúc đẩy phát triển kinh tế tại các vùng nông thôn.

Tại Việt Nam, xuất phát từ lợi thế phát triển kinh tế nông thôn để nâng cao đời sống người dân, hiện nay Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng. Từ đó, PTDLNT được nhận thức ngày càng có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế vùng nông thôn. Mặc dù DLNT là một thị trường du lịch nhỏ nhưng lại có đóng góp lớn cho phát triển kinh tế vùng nông thôn như tạo ra việc làm, bảo tồn giá trị văn hóa, tạo ra các công việc với kỹ năng mới, giúp giảm di cư nông thôn, tạo sức sống mới cho nền kinh tế nông thôn. Theo Tổng cục Thống kê (2017), dân số của vùng nông thôn 60,8 triệu người, chiếm 64,9%, so với dân số thành thị 32,9 triệu người, chiếm 35,1%. Ở khu vực nông thôn, người lao động thiếu việc làm là 1.63%, tỷ lệ thất nghiệp là 5,85%. Kinh tế nông thôn có nhiều thành tựu nhưng cũng là vùng dễ bị tổn thương trước tác động của thiên tai, dịch bệnh, diễn biến bất lợi của thị trường trong và ngoài nước và những tác động của con người. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại các vùng nông thôn trên thế giới và tại Việt Nam cần được nghiên cứu liên tục. Thời gian qua, nhiều mô hình DLNT cũng đã chứng minh tính khả thi và hiệu quả ở nhiều vùng nông thôn nước ta như tại An Giang, Cần Thơ, Long An, Sóc Trăng (du lịch miệt vườn), Đà Nẵng, Quảng Nam (du lịch nông nghiệp, du lịch làng nghề), Lào Cai (du lịch cộng đồng –


DLCĐ)... là những bằng chứng thuyết phục có ý nghĩa cho PTDLNT tại nhiều tỉnh thành của cả nước. Bên cạnh những lợi thế có được, PTDL vùng nông thôn, đặc biệt đối với các vùng dân tộc thiểu số và miền núi ở nước ta có rất nhiều khó khăn và thách thức và cần được xem xét thấu đáo, như vị trí kém thuận lợi, hệ thống cơ sở hạ tầng chưa được đồng bộ, trình độ sản xuất hàng hóa và hạn chế khả năng tiếp cận thị trường, bị tách biệt bởi yếu tố ngôn ngữ và văn hóa, tỷ lệ di cư khỏi địa phương thấp, phần nhiều người dân có trình độ văn hóa thấp... Những khó khăn về nhận thức của người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số là nguyên nhân quan trọng đòi hỏi cách tiếp cận khác biệt trong thúc đẩy hợp tác. PTDLNT cần xác định các bên chủ lực, đặc biệt vai trò người dân địa phương, trong đó người dân tộc thiểu số cần được chú trọng. Do đó, trong quá trình PTDLNT, đặc biệt phát triển tại vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, rất cần thiết nghiên cứu đến yếu tố nhận thức và hiểu biết của họ và những trở ngại trong quá trình triển khai PTDLNT. Đồng thời, từ nhận thức, tư duy của các bên liên quan sẽ nhận diện các yếu tố thúc đẩy, hạn chế quá trình hợp tác cho PTDL vùng nông thôn.

Tại tỉnh Lâm Đồng, DLNT đã được khai thác tại một số huyện như Lạc Dương, Đức Trọng, Lâm Hà, Đơn Dương, Di Linh, Bảo Lộc, các xã vùng ven TP. Đà Lạt và đã hình thành một số tuyến DLNT nhất định, tuy nhiên mức độ PTDL tại các huyện chưa đồng đều. Thực tế cho thấy quan hệ HTCBLQ đóng vai trò quan trọng thúc đẩy PTDLNT. Hiện nay, PTDLNT tỉnh Lâm Đồng thiếu kế hoạch, chính sách làm cơ sở cho phát triển. Phần lớn các điểm đến DLNT do các nông hộ tự phát và đưa vào thành sản phẩm du lịch. Sự tham gia của các bên liên quan trong PTDLNT chưa đầy đủ và vai trò của họ không được phát huy tối đa dẫn đến lợi ích thấp. Nếu chỉ có các chủ thể riêng lẻ, độc lập trong khai thác PTDLNT thì khó kiểm soát những tác động tiêu cực từ du lịch. Bởi vậy, xác định cụ thể các bên liên quan, nhận thức của họ trong hợp tác PTDLNT theo hướng bền vững tại tỉnh Lâm Đồng rất cần nghiên cứu làm sáng tỏ, đặc biệt trong bối cảnh vùng nông thôn có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số tham gia vào hoạt động du lịch. Chính vì thế HTCBLQ sẽ tổng hợp được các nguồn lực thúc đẩy PTDLNT, giải quyết được nhiều tồn tại của vùng nông thôn và thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn. Do đó có thể khẳng định, quan hệ hợp tác đóng vai trò rất quan trọng trong PTDLNT. Đây cũng là vấn đề cấp thiết cho việc PTBV vùng nông thôn hiện nay, đặc biệt vùng nông thôn miền núi tỉnh Lâm Đồng đang gắn với ―Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới‖ của địa phương.

Tóm lại, từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy, cơ sở lý thuyết về DLNT


và HTCBLQ trong PTDLNT theo hướng bền vững vẫn chưa nhận được sự quan tâm đầy đủ làm nền tảng cho triển khai thực tiễn. Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài ―Quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong phát triển du lịch nông thôn theo hướng bền vững: Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Lâm Đồng‖ làm đề tài nghiên cứu luận án của mình.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu tổng quát

Nghiên cứu về HTCBLQ trong PTDLNT theo hướng bền vững từ đó đề xuất các hàm ý nhằm nâng cao hiệu quả HTCBLQ nhằm thúc đẩy PTDLNT theo hướng bền vững tại tỉnh Lâm Đồng.

1.2.2. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu tổng quát ở trên, các mục tiêu nghiên cứu cụ thể bao gồm:

Xác định các bên liên quan tham gia hợp tác trong PTDLNT.

Xác định các hình thức hợp tác và vai trò của HTCBLQ trong PTDLNT theo hướng bền vững.

Xác định và giải thích được các nhân tố thúc đẩy và hạn chế HTCBLQ trong PTDLNT theo hướng bền vững.

Xác định và giải thích được các yếu tố để hợp tác thành công trong PTDLNT theo hướng bền vững.

Đề xuất khung nghiên cứu về quan hệ HTCBLQ trong PTDLNT theo hướng bền vững.

1.3. Câu hỏi nghiên cứu

Câu 1: Các bên liên quan tham gia hợp tác trong PTDLNT là ai?

Câu 2: Có những hình thức hợp tác và vai trò của HTCBLQ trong PTDLNT theo hướng bền vững như thế nào?

Câu 3: Các nhân tố nào thúc đẩy và hạn chế HTCBLQ trong PTDLNT theo hướng bền vững? Nó được thể hiện cụ thể hoặc có ý nghĩa như thế nào tại điểm đến vùng nông thôn?

Câu 4: Cần những yếu tố nào để hợp tác thành công trong PTDLNT theo hướng bền vững?

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/04/2023