Trốn Vào Tình Yêu, Tìm Thú Vui Thân Xác

tỉnh say là một lần Vũ hao mòn thể xác, là một lần nhân cách bị tàn tạ và khi đó “Sóng buồn xô đến tự đâu đâu”.

Tìm hiểu Thơ say Mây ta thấy thực và mộng luôn luôn là nỗi dày vò, suy tư, là nỗi buồn, niềm khao khát của thi sĩ. Nó là cội nguồn của mạch nguồn trong thơ Vũ. Điều kỳ diệu là thi sĩ đã nói lên điều đó một cách nghệ thuật, chân thực và độc đáo với vốn kiến thức Đông- Tây , Kim - Cổ có bề dầy. Đọc những thi phẩm Say đi em, Chén rượu đôi đường, Quên, Tuý hậu cuồng ngâm, Bài hát cuồng ta thấy Vũ Hoàng Chương viết bằng nguồn cảm hứng tự phát, bằng nhịp điệu đê mê trong khoái lạc. Cho nên người ta cho rằng thơ ông làm cho người ta quên lãng, chìm đắm trong những âm hưởng du dương của những thú say tầm thường để khêu gợi, đánh thức những ham muốn trần tục, xác thịt :

Ánh đèn tha thướt

Lưng mền não nuột dáng tơ Hàng chân lả lướt

Đê mê hồn gửi cánh tay hờ

( Say đi em ) Hãy buông lại gần đây làn tóc rối Sát gần đây, gần nữa cặp môi điên

(Quên)

Nhưng đến với thơ say người đọc được tận hưởng cảm giác lâng lâng, chếch choáng của hơi men, cảm giác đê mê, khoái lạc như đang lơ lửng tận trên mây của khói thuốc. Nhịp điệu của câu thơ buông dài như tiếng đàn bầu ngọt ngào du dương ngân lên trong những đêm thanh vắng da diết vang lên ám ảnh tâm cam người đọc đến nao lòng. Nếu không phải thi hứng được khơi nguồn từ chính cảm giác nhập men, nhập khói của bản thân thì chắc chắn Vũ Hoàng Chương không thể xuất thần được những ý thơ, nhịp thơ hay như thế. Phải chăng nguồn thi hứng của Vũ Hoàng Chương đã được xây dựng, nâng lên và thoát thân từ chính những thú say sưa, trần tục tầm thường để vươn lên một tầng cao mới? Vậy thì tại sao có thể coi đó là truỵ lạc được. Chính Hoài Thanh,

Hoài Chân đã khẳng định: “Kể cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng mực, say sưa mà không hẳn truỵ lạc, mặc dầu từ say sưa đến truỵ lạc đường chẳng dài chi. Nhưng truỵ lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa. Duy ở đây

nó có vị chua chát, hằn học và bi đát riêng” 42,tr.353

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

Cái bi đát được nói ở đây phải chăng chính là mặc cảm lạc loài, là nỗi đau mất mát trong tình yêu như ở chương 1 chúng ta đã tìm hiểu. Có lẽ đọc Thơ mới nói chung và thơ Vũ Hoàng Chương nói riêng nếu ta không cảm nhận được cái hồn của nhà thơ “trào ra đầu ngọn bút” không thấy các nhà thơ đã “trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh” thì có lẽ đó là một thiếu sót lớn. Bởi lẽ cái đau đời, cái bế tắc của Thơ mới là phản chiếu cái bế tắc của xã hội cũ, là bóng hình, là tiếng kêu than về thân phận của các nhà thơ mà Vũ Hoàng Chương đã đề cập đến trong Tuý hậu cuồng ngâm, Bài hát cuồng .

Từ cảm xúc về những thú say sưa bình thường như say rượu, say thuốc phiện, say nhảy đầm Vũ Hoàng Chương nâng thú say lên thành thi hứng. Nhà triết học Hêghen đã từng nói “Cái đẹp nằm trong bi kịch”. Vũ Hoàng Chương đã làm được điều đó, đã nâng thú say lên thành một nghệ thuật. Từ cổ chí kim có biết bao nhà thơ đã từng viết về thú say sưa nhưng lấy bản thân thú say đó đẩy lên thành nguồn cảm hứng thì có lẽ chỉ có mình Vũ Hoàng Chương .

Phong cách nghệ thuật thơ Vũ Hoàng Chương - 7

2.2. Trốn vào tình yêu, tìm thú vui thân xác

Phong trào Thơ mới nói chung có sẵn một hướng thoát ly thực tại, đó là tình yêu. Chính Xuân Diệu đã từng thốt lên “Những giọng anh em đầy rẫy trong văn chương, không khí trĩu nặng những chàng và nàng không khéo thở

thì chết ngạt mất” 16,tr.84.

Vũ Hoàng Chương đến với tình yêu với những nét cá biệt, độc đáo. Tình yêu đối với Vũ Hoàng Chương chỉ được coi như là một phương tiện để thoát ly tìm đến thế giới vẹn toàn và lý tưởng chứ không được coi như một “thế giới ” riêng như tình yêu của Xuân Diệu. Bởi chịu sự mất mát quá lớn trong tình yêu

nên thơ tình của ông nếu không lã chã nước mắt như bài Mười hai tháng sáu, U tình thì cũng là thứ tình yêu một chiều mơ hồ như trong Tình si hoặc như làn gió hững hờ thoảng qua như trong bài Tạm ghé thuyền.

Ta biết rằng, xưa Nguyễn Du mô tả tình yêu trong cái bản sắc phương Đông sâu sắc, tinh tế, kín đáo: "chập chờn cơn tỉnh cơn mê" hay "bâng khuâng như tỉnh như say một mình". Còn nay tình yêu trong Thơ mới mang bản sắc phương Tây tha thiết, chân thành, tinh tế và tinh vi :

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi.

( Vội vàng - Xuân Diệu)

Nhưng ở Vũ Hoàng Chương thứ tình yêu có tính chất bản thể như vậy rất hiếm hoi mà chỉ là:

Chập chờn bến thực hay nguồn mơ Hay chính bâng khuâng là ái tình.

(Yêu mà chẳng biết)

Chính "chập chờn", "bâng khuâng"... là những nhịp rung trong cảm giác ở đó không hẳn là "bến thực", hay "nguồn mơ" mà là mơ mơ thực thực, một sự hoà nhập nhất định của mơ, thực. Sự hoà hợp nhất định trong tâm trạng ấy đã dẫn đến tình yêu với đủ mọi sắc thái của nó. Từ "bâng khuâng", "nao nao" trong sáng của chớm yêu, yêu thầm ( Dịu nhẹ ) đến : “ cùng nín đau buồn khi chia phôi”. Nhưng dường như tình yêu đã bị nhìn bằng con mắt tầm thường, thuần tuý xác thịt chứ không trong trắng, mơ mộng như Huy Cận (Áo trắng), hay say đắm, nghẹn ngào, e thẹn như Xuân Diệu (Xuân đầu).

Trong Thơ say Mây hiếm khi thi sĩ trở về với trần thế, với bản thể trong hình hài khuôn diện là "anh" và "em" bởi thi sĩ ở trên, cao siêu hơn tình yêu. Hơn thế nữa thi sĩ lại bị ảnh hưởng của cái nhìn duy lý nên đã coi tình yêu như một lạc thú để quên cái đời thường, thoát khỏi cuộc sống quên đi những bùn nhơ nơi hạ giới. Bởi thế nhiều lúc thi sĩ say sưa miêu tả tỉ mỉ nên thơ ông thường bị coi là sa ngã, truỵ lạc :

Nặng chĩu hai vai, Nàng cố gượng Thắt vòng tay ghì riết lưng ta

Những luồng run chạy khắp thịt da ngà Run vì sợ hay vì ngây ngất

( Tối tân hôn)

Trong Thơ mới Xuân Diệu cũng có những vần thơ viết về tình yêu bằng cảm giác nhục thể, những câu thơ mô tả tình yêu như sự kiếm tìm cảm giác: "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần", "uống hồn em", "tuôn âu yếm", "lùa mơn chớn"..., lại có cả những câu thơ viết về tình yêu bằng sự đụng chạm thân thể :

Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực Hãy trộn nhau đôi mái tóc gắn dài

(Xa cách)

Xuân Diệu đến với tình yêu là muốn khám phá thực chất ý nghĩa của nó và qua đó trình bày quan niệm sống của mình. Vốn là người có lòng khát khao sự sống, Xuân Diệu đã thổi vào thơ những nét sôi nổi, cuồng nhiệt rất phương Tây và làm náo động thơ mới bằng triết lý hưởng thụ của mình :

Mau với chứ vội vàng lên với chứ Em em ơi, tình non sắp già rồi

(Giục giã).

Và Xuân Diệu kêu gọi chúng ta phải sống một cuộc sống có ý nghĩa, sống nồng nhiệt say mê, phải tận hưởng cái giây phút hiện tại. Chịu ảnh hưởng của triết lý này Vũ Hoàng Chương kêu gọi :

Hãy buông lại gần đây làn tóc rối Sát gần đây, gần nữa cặp môi điên

hay: Say đi em! Say đi em! Say cho lơi lả ánh đèn,

Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt Rượu, rượu nữa và quên, quên hết

Nhưng ta đã biết men và khói chỉ là phương tiện trong cuộc phiêu lưu tìm đến thế giới mộng tưởng và thi sĩ đã thất bại. Đến với tình yêu thi sĩ cũng rơi vào tình trạng như vậy. Trong Tối tân hôn Động phòng hoa chúc - thời điểm mà hạnh phúc của tình yêu lên tới tột đỉnh - thi sĩ không thể tìm thấy cho mình một niềm khoái lạc theo đúng nghĩa của tình yêu, mà nhân vật trữ tình rơi vào trạng thái phân tâm, tâm hồn hai đối tượng không có sự hoà hợp mà chỉ hóng nghe, tìm sự trở về của vũ trụ xa xăm :

Ngực sát ngực, môi kề môi

Nàng cùng ta nhìn nhau cười chẳng nói Ôm vai nhau cùng lắng tiếng xa xôi

(Tối tân hôn)

Cho đến khi "Đờn tiên thôi gọi/ Âm thầm xa bặt tiếng tiêu" thì cuộc sống trần gian chẳng còn ý nghĩa gì, chỉ còn lại sự ngao ngán, chán chường cùng sự chua chát của một con người muốn chạy trốn hiện thực nhưng lại không muốn chối bỏ lạc thú đời thường:

Thôi hết nhé! Thoả đi, niềm rạo rực! Từ cung trăng rơi ngã xuống trần gian Ta sắp uống bùn nhơ và sự thực

Sẽ mai đây dầy xéo giày xéo giấc mơ tàn

Ngược hẳn với Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu luôn tìm cõi huyền diệu ngay ở trần gian. Vượt lên trên tất cả những cảm giác mà người ta coi là “nhục thể", Xuân Diệu muốn vươn tới cái lý tưởng của tình yêu đó là sự hoà hợp tuyệt vời giữa tâm linh và thể xác. Đó là sự khái quát mang tư tưởng triết lý về tình yêu mà cả Vũ Hoàng Chương và Hàn Mặc Tử chưa thể đạt tới. Cho nên Xuân Diệu chưa bao giờ dừng lại ở khoái cảm bản năng mà sau mỗi bài thơ ông thương thâu tóm toàn bộ tư tưởng tình yêu và nâng thêm một tầng nghĩa mới:

Này lắng nghe em khúc nhạc thơm Say người như rượu tối tân hôn Như hương thấm tận qua sương tuỷ Âm điệu thần tiên thấm tận hồn

( Huyền diệu )

Vũ Hoàng Chương đã không tìm thấy trong giây phút ấy cái "âm điệu thần tiên thấm tận hồn" - sự rung cảm ở tần số tối đa như Xuân Diệu mà chỉ là sự thờ ơ của cảm giác bị tê liệt. Dường như thi sĩ coi yêu như là của riêng phần xác cũng như say và mộng là của riêng phần hồn vì thế mà tâm hồn và thể xác chưa có sự hài hoà. Với một trạng thái tinh thần như vậy thì sự hưởng thụ cũng chưa tận mà sự giải thoát của tâm hồn cũng chưa tới. Điều đó chứng tỏ khoái lạc của thân xác không phải là cái cao nhất của cuộc sống thực tại, cũng không phải là cái đích trong cuộc hành trình thoát ly mà đó là lối thoát bất đắc dĩ hay một sự thể nghiệm trong cuộc kiếm tìm sự giải thoát. Vũ Hoàng Chương muốn dựa vào tình yêu để trốn chạy nhưng tình yêu ấy xen nhiều nhục thể và không có chỗ bấu víu nên lại đi ra ngoài cuộc đời.

Khác với Vũ Hoàng Chương và cũng không giống với Xuân Diệu, Nguyễn Bính không đắm đuối ca ngợi tình yêu hưởng lạc và những thú vui thân xác. Tình yêu trong thơ ông luôn gắn bó với cuộc đời thực. Cái Tôi trữ

tình trong thơ và cái Tôi trong đời vẫn luôn thống nhất. Bởi vậy Nguyễn Bính khi tìm đến tình yêu không ở trong tình trạng thoát ly mà vẫn luôn chan hoà gắn bó với đời. Trong tình yêu, Nguyễn Bính có ý thức không để những ham muốn trong tình yêu lứa đôi cuốn vào vòng truỵ lạc. Ông luôn vươn tới một hạnh phúc nhỏ bé dung dị thường nhật với " một gian nhà nhỏ đi về có nhau", một mái ấm gia đình, một hạnh phúc đơn sơ, giản dị và đầy thơ mộng. Và ông luôn vươn tới cái quả hạnh phúc viên mãn mà ai cũng hằng mong muốn là kết vợ chồng. Có lẽ trong Thơ mới Nguyễn Bính là nhà thơ duy nhất nói lên được điều đó. Bởi vì, chủ nghĩa lãng mạn nói chung và Thơ mới nói riêng coi tình yêu như một cuộc trốn tìm trong đó mỗi cá thể là một thế giới riêng tây. Trong cuộc đuổi bắt, nhà thơ luôn đướng ở vị trí cao hơn đối tượng, luôn tạo ra một khoảng cách vô hình nên không bao giờ bắt được. Vì vậy Thơ mới coi yêu là một chuyện và hôn nhân lại là chuỵên khác. Ta hãy nghe Xuân Diệu nói về tình yêu :

Cuộc đời cũng đìu hiu như dặm khách Mà tình yêu như quán trọ ven đường Mái tranh tàng đỡ rét một đêm sương Vò nước lã mát xoàng đợi buổi nắng

Đã là “ quán trọ” thì làm sao có sự chung thuỷ, chung tình ? Trong thơ, Xuân Diệu đã thể hiện một quan niệm yêu đương rất mới mẻ : đừng coi sự chung thuỷ là lý tưởng của tình yêu. Đối với ông hạnh phúc mà ái tình đem lại cho con người không phải là sự thuỷ chung mà là sự hoà hợp tuyệt vời của hai cá thể về cảm xúc và cảm giác. Như thế tình yêu chỉ mãi mãi là hoa chứ không bao giờ kết trái. Đó là triết lý chung của chủ nghĩa lãng mạn.

Nhưng Vũ Hoàng Chương là một ngoại lệ. Ông coi tình yêu là keo sơn chung thuỷ nên một lòng, một dạ tôn thờ mối tình đầu. Với Vũ Hoàng Chương đời người và và đời thơ là của mối tình đầu. Cho nên khi tình yêu tan vỡ ông rầu rĩ than khóc: "Chút ngây thơ còn lại cũng vừa tan". Có lẽ sự tan vỡ của

mối tình đầu khiến ông có cái nhìn quá khắt khe với tình yêu. Tình yêu - một sự sáng tạo, một ân huệ kỳ diệu của tạo hoá ban cho đời đã bị ông nhìn với một con mắt đầy khinh bỉ. Vũ yêu mà không tin , yêu mà không có sự rung động của con tim, của bay bổng tâm hồn. Khi yêu Vũ luôn tách bạch tâm hồn và thể xác. Đó là bi kịch khiến Vũ Hoàng Chương không bao gìơ có thể bứt khỏi vòng luẩn quẩn đầy mâu thuẫn. Không giải quyết được mâu thuẫn thì tâm trạng buồn nản, chán chường bế tắc là điều tất yếu. Có thể nói Thơ say đến phần Lỡ làng là những mâu thuẫn, là nỗi thất vọng, là lời thú nhận sự thất bại trong tình yêu.

Tình yêu thất bại, quá đau đớn thi sĩ đắm mình trong dòng sông men, chôn vùi sự thật. Hơn nữa say với Vũ Hoàng Chương đã thành kiếp rồi, say làm mờ đi nỗi đắng cay nhưng lại làm cho Vũ mê, đưa thi sĩ vào cảm giác mộng mị. Vậy thì Vũ Hoàng Chương chưa quên được tình yêu. Và vì thế tình yêu trần thế nay đã chuyển sang một thứ tình yêu trong mộng mị, hư ảo "chập chờn bến thực hay nguồn mơ" ; một thứ tình Liêu Trai, Giấc hồ ; một thứ tình không có đau khổ cũng chẳng có hạnh phúc mà chỉ là " tình anh nghìn kiếp thoáng dư ba” bảng lảng ở cõi tiên.

Vũ Hoàng Chương khao khát nuôi giấc mộng lên tiên để được quên hết. Nhưng ở cõi tiên ông vẫn không thể quên được mối tình đầu. Tuy nhiên ở đó không còn là tâm trạng nhớ nhung luyến tiếc mà tất cả chỉ là sự chua chát đắng cay. Bởi vậy nhà thơ thấy người yêu mình là do Hồ Ly Tinh biến thành:

Ai đó? phải chăng hồn Cỏ Cây

- Mộ vắng lầu hoang, ngơ ngác sợ- Cùng đêm nương về đây

Cùng mưa vương về đây

Nửa truỵên, Hồ Ly trang sách dở Lung linh tiếng giày

Xem tất cả 107 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí