mà Mỹ áp dụng. Vì vậy, việc nghiên cứu những thuận lợi, khó khăn của hàng Dệt May xuất khẩu nước ta vào thị trường lớn nhất thế giới này phải đặt lên hàng đầu, từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể để phát triển hơn nữa mặt hàng này vào Mỹ.
Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã chọn đề tài:
“Phát triển Dệt May xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ hậu WTO”
2. Mục tiêu của đề tài:
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình nói chung về sản xuất và xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam vào Mỹ, đề tài đưa ra:
- Khái quát về sản xuất và xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam;
- Phân tích những thuận lợi và khó khăn của hàng Dệt May xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Mỹ hậu WTO;
- Đề xuất những giải pháp để phát triển hàng Dệt May xuất khẩu Việt Nam vào Mỹ trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu Dệt May Việt Nam vào thị trường Mỹ hậu WTO.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Hoạt động xuất khẩu Dệt May Việt Nam.
+ Thời gian: Từ sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thu thập thông tin nhằm đưa ra các giải pháp, em đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tại bàn, phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, mục lục và phụ lục, đề tài được chia làm 3 chương:
- Chương 1 : Tổng quan về Dệt May xuất khẩu của Việt Nam
- Chương 2: Thực trạng Dệt May xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ hậu WTO
- Chương 3: Giải pháp phát triển Dệt May xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ hậu WTO.
Trong thời gian hoàn thành khóa luận, do những hạn chế về thời gian, sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm nghiên cứu nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô, bạn bè và những người quan tâm để bài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn – PGS.TS. Đỗ Thị Loan
đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ
DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
1.1. Quá trình phát triển ngành Dệt May Việt Nam
Là một trong những ngành nghề truyền thống lâu đời, lịch sử phát triển của ngành Dệt May gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội người Việt. Quá trình phát triển từ sản xuất thủ công lên sản xuất công nghiệp chỉ diễn ra khi có sự chuyển giao công nghệ từ Châu Âu. Ngành công nghiệp Dệt May nước ta bắt đầu phát triển với sự ra đời của nhà máy dệt Nam Định năm 1889. Kể từ đó, quá trình phát triển thành công ngành Dệt May cho đến khi ngành trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn của cả nước như hiện nay có thể được chia làm bốn giai đoạn như sau.
Trước năm 1975, ngành sản xuất Dệt May có qui mô nhỏ bé trong nền kinh tế quốc dân. Ngành chỉ sản xuất sản phẩm Dệt May phục vụ khôi phục kinh tế, xây dựng đất nước theo chương trình kinh tế tập trung vào sản xuất hàng thiết yếu cho đời sống mà không phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Thời gian này có một số nhà máy mới được xây dựng như nhà máy dệt 8-3, nhà máy dệt Vĩnh Phú, nhà máy may Thăng Long, nhà máy may Chiến Thắng và nhà máy may Đáp Cầu. Các làng nghề truyền thống được khuyến khích phát triển.
Từ năm 1975 đến năm 1991, ngành công nghiệp tiếp tục hướng vào mục tiêu chính là hàng tiêu dùng nội địa và sản xuất với công nghệ lạc hậu, máy móc trang thiết bị cũ. Vào giữa những năm 80, ngành Dệt May cũng gặp phải một số vấn đề khó khăn như doanh nghiệp hoạt động trì trệ do chỉ sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch, chưa chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm nên sản xuất nội địa khủng hoảng và thiếu hiệu quả. Xuất khẩu sản phẩm Dệt May trong giai đoạn này chỉ đạt vài trăm triệu USD và được thực
hiện trong khuôn khổ các nghị định được ký kết với một số nước Đông Âu. Sản phẩm Dệt May được xuất khẩu đầu tiên sang các nước thuộc khối kinh tế Comecon vào năm 1976 và xuất khẩu sang các nước Liên Xô cũ qua các hợp đồng gia công.
Từ năm 1991 đến năm 2007, công cuộc đổi mới kinh tế đã mở ra thời kỳ phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp Dệt May. Tham gia vào ngành công nghiệp này không chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước mà còn có các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, công nghệ được đổi mới tiên tiến, máy móc thiết bị hiện đại, thị trường xuất khẩu mở rộng như Mỹ, EU và Nhật Bản. Trong giai đoạn này, ngành Dệt May đã khẳng định vị trí quan trọng trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường và trở thành một trong những ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn của cả nước.
Từ năm 2007 đến nay, sự phát triển của ngành Dệt May nước ta đánh dấu bước ngoặt lớn với sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Theo qui định của các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, ngành Dệt May bước sang giai đoạn mới khi được tham gia vào thị trường thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa các nền kinh tế. Sản phẩm Dệt May xuất khẩu được nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường nước ngoài do những thuận lợi mà hội nhập quốc tế mang lại, đồng thời, sản phẩm Dệt May nội địa gặp nhiều cạnh tranh gay gắt hơn từ các nước xuất khẩu khác. Mặc dù không nằm ngoài những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ cuối năm 2007, ngành Dệt May, đặc biệt là Dệt May xuất khẩu vẫn được chú trọng phát triển trở thành ngành xuất khẩu hàng đầu của cả nước trong thời gian tới.
Như vậy, ngành công nghiệp Dệt May nước ta đã trải qua nhiều biến động để đạt được những thành quả như hiện nay. Nhìn chung, sự thay đổi, phát triển ở mỗi giai đoạn đã bộc lộ những điểm mạnh, điểm yếu của toàn
ngành. Đó là cơ sở để ta phân tích những thuận lợi, khó khăn khách quan và chủ quan của ngành công nghiệp Dệt May, đặc biệt là Dệt May xuất khẩu để từ đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho ngành này cho những phát triển tiềm năng trong tương lai.
1.2. Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất
1.2.1.1. Nguyên liệu
Với tốc độ tăng trưởng trung bình là 20%/ năm, kim ngạch xuất khẩu của hàng Dệt May chiếm khoảng 15% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, ngành công nghiệp Dệt May chứng tỏ là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Năng lực sản xuất của ngành có thể thấy qua bảng sau:
Bảng 1.1. Năng lực sản xuất của ngành Dệt May Việt Nam năm 2009
Số Doanh nghiệp | Số máy móc | Năng lực sản xuất | |
1. Tăng | |||
Cán bông | 60.000 tấn | ||
Sợi | 145 | 3.789.000 | 350.000 tấn |
2. Không thay đổi | |||
Dệt | 401 | 21.800 | 1.000 triệu m2 |
Dệt kim | 105 | 3.800 | 200.000 tấn |
Không dệt | 7 | 5.000 tấn | |
Hoàn tất | 94 | 1.109 | 700 triệu m2 |
3. Giảm | |||
May mặc | 2.424 | 918.700 | 2.400 triệu m2 |
Khăn bông có vòng tuyết | 62.000 tấn |
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển xuất nhập khẩu may của Việt Nam vào thị trường Mỹ hậu WTO - 1
- Fdi Vào Ngành Dệt May: Số Dự Án Và Số Vốn Đầu Tư (Triệu Usd) Trong 1988 - 2008
- Kim Ngạch Xuất Khẩu Hàng Dệt May Của Việt Nam Qua Các Năm
- Sự Cần Thiết Phải Phát Triển Dệt May Xuất Khẩu Việt Nam Hậu Wto
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
(Nguồn: Số liệu thống kê – Hiệp hội Dệt May Việt Nam)
Tuy nhiên, một trong những áp lực của ngành Dệt May hiện nay là chưa tự tạo được nguồn nguyên liệu cho sản xuất nên còn phụ thuộc vào phụ liệu nhập khẩu. Mỗi năm ngành may mặc trong nước cần khoảng 2 tỉ mét vuông vải nhưng vải sản xuất trong nước mới chỉ đạt khoảng 700 triệu mét vuông/năm. Do đó, nguyên liệu phục vụ cho ngành chủ yếu được nhập khẩu tới 90% từ các nước và vùng lãnh thổ khu vực châu Á như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Đài Loan và các nước Đông Nam Á nên mặc dù có kim ngạch xuất khẩu cao nhưng tỷ lệ thu về lại thấp, chiếm khoảng 35-38% tổng kim ngạch. Kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu của nước ta thể hiện qua bảng sau:
Biểu đồ 1.1. Kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu cho ngành Dệt May Việt Nam trong giai đoạn năm 2000 – 2009
Đơn vị: Triệu USD
(Nguồn: Số liệu thống kê – Hiệp hội Dệt May Việt Nam)
Theo số liệu thống kê của biểu đồ 1.1, từ năm 2000 đến năm 2008, tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu cho ngành dệt tăng dần và tăng gấp gần
3 lần, từ 2,096 tỷ USD lên đến 7,064 tỷ USD. Có thể thấy, kim ngạch nhập khẩu vải phục vụ may xuất khẩu là lớn nhất và tăng dần, tiếp đến là phụ liệu nhưng có xu hướng giảm dần. Kim ngạch nhập khẩu bông, sợi duy trì tương đối ổn định. Từ đó có thể thấy sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của ngành may xuất khẩu và dệt may xuất khẩu Việt Nam dần chủ động về phụ liệu. Ngoài ra, năm 2008, xuất khẩu Dệt May đạt 9,1 tỷ USD, nhưng nhập khẩu các nguyên phụ liệu như vải, sợi, cúc, chỉ, khoá kéo... lên tới 7,064 tỷ USD. Điều này cho thấy ngành Dệt May xuất khẩu đang trên đà tăng trưởng nhanh chóng nhưng bỏ xa ngành dệt và sản xuất nguyên liệu. Vì vậy, vấn đề nguyên phụ liệu cho ngành công nghiệp chủ lực này của nước ta vẫn là một trở ngại lớn.
Nguyên nhân của khó khăn trong khâu sản xuất nguyên phụ liệu này xuất phát từ sự yếu kém của ngành dệt và ngành công nghiệp phụ trợ, chưa theo kịp tốc độ phát triển của ngành may và chưa tương xứng nhu cầu của thị trường. Thực tế cho thấy ngành dệt và ngành may chưa thực sự liên kết chặt chẽ. Đây là vấn đề nan giải vì không chỉ nhập khẩu phần lớn nguyên liệu cho ngành may, bản thân ngành dệt cũng hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào các nguồn cung cấp bên ngoài khi nhập khẩu đến 95% nguyên liệu bông, 100% hóa chất và máy móc thiết bị. Đó mới là về mặt số lượng, ngay cả chất lượng, ngành dệt cũng không đáp ứng được yêu cầu của ngành may xuất khẩu.
Tuy nhiên, gần đây, vấn đề nguyên phụ liệu cho ngành Dệt May đã có dấu hiệu tích cực. Tỷ lệ nội địa hóa trong ngành Dệt May đang tăng lên tại không ít doanh nghiệp khi đã tự cân đối được nguyên liệu trong nước, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Hiện nay, Việt Nam đã chủ động đưa ra 8 dự án để kêu gọi các nhà đầu tư để phát triển ngành dệt ở một số khu công nghiệp ở Đồng bằng Bắc bộ, duyên hải miền trung và Đông
Nam Bộ1. Tháng 4/2009, nguyên liệu vải dệt từ sợi bông ước đạt 22,1 triệu m2, tăng 10,7% so với tháng 3, tính chung 4 tháng ước đạt 66,5 triệu m2, chỉ bằng 76,3% cùng kỳ (3 tháng chỉ bằng 66,9% so với cùng kỳ)2. Như vậy, sản xuất nguyên phụ liệu bắt đầu chuyển biến. Nhập khẩu vải và nguyên phụ liệu Dệt May trong năm 2009 giảm mạnh so với năm 2008. Nhập khẩu vải đạt 4,17 tỷ USD (giảm 6,4%), nguyên phụ liệu đạt 1,081 tỷ USD (giảm 20%), trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu không giảm, chứng tỏ ngành Dệt May đã tạo ra giá trị tăng thêm nhiều hơn trước.
Mặc dù vậy, nguyên phụ liệu cho ngành Dệt May vẫn còn là vấn đề nan giải của ngành Dệt May Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa hiện nay. Ngành công nghiệp này sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ phía các nước có nền công nghiệp phụ trợ Dệt May phát triển như Trung Quốc và Thái Lan. Vì thế, để đảm bảo năng lực cạnh tranh của mặt hàng Dệt May của Việt Nam trên thị trường toàn cầu trong thời gian tới, một chiến lược dài hạn và đồng bộ để phát triển ngành dệt và ngành may là rất cần thiết để phát huy tiềm lực sản xuất và xuất khẩu của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam.
1.2.1.2. Công nghệ
Đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị trong ngành Dệt May đã được các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đặt ra và thực hiện mạnh mẽ. Các dây chuyền công nghệ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các thị trường xuất khẩu lớn như Mỹ, EU và Nhật Bản đã bắt đầu được đầu tư nâng cấp. Đến nay, hầu hết các doanh nghiệp Dệt May xuất khẩu đã lắp đặt dây chuyền công
1 Hải Châu (2007), Dệt may Việt Nam kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực nguyên liệu,
http://vietbao.vn/Kinh-te/Det-may-VN-keu-goi-dau-tu-vao-linh-vuc-nguyen-lieu/20671478/87/.html [truy cập ngày 20/02/2010]
2 Bộ Công Thương (2010), Ngành dệt may vẫn chưa hết khó khăn, http://www.vietnamtextile.org/ChiTietTinTuc.aspx?MaTinTuc=218&Matheloai=5 [truy cập ngày 25/02/2010]