+ Kinh doanh bất động sản là hoạt động mang tính cục bộ và khu vực. Mọi hoạt động kinh doanh phải gắn liền với vị trí của bất động sản, mỗi một vị trí của bất động sản khác nhau, sẽ mang lại thu nhập cho chủ sở hữu và nhà kinh doanh những lợi ích khác nhau. Môi trường xung quanh bất động sản có vai trò quan trọng đối với mỗi giá trị của bất động sản. Do đó, những hoạt động kinh doanh ở những địa bàn, khu vực khác nhau cũng khác nhau, không thể áp đặt mô hình kinh doanh của nơi này cho nơi khác.
+ Kinh doanh bất động sản là hoạt động đầu tư lớn và lâu dài. Bất động sản thường có thời gian sử dụng xây dựng, sử dụng và thu hồi vốn trong thời gian dài, do đó, kinh doanh bất động sản cần số vốn đầu tư lớn, đầu tư trong dài hạn. Những doanh nghiệp có lợi thế về vốn thì có khả năng cạnh tranh cao, nhất là trong bối cảnh lãi suất ngân hàng và tín dụng thắt chặt đối với cho vay bất động sản.
+ Kinh doanh bất động sản là hoạt động nhạy cảm, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của pháp luật và chính sách. Nhà nước quản trị toàn bộ bất động sản, trước hết là đất đai rồi đến các công trình xây dựng, tài sản trên đất thông qua các luật: Luật đất đai, Luật Xây dựng, Luật kinh doanh bất động sản... Quan hệ cung cầu bất động sản khá nhạy cảm, nhìn chung cung nhỏ hơn cầu, do đó nhà nước cần phải điều tiết thông qua hệ thống pháp luật và chính sách.
+ Hoạt động kinh doanh bất động sản vừa là hoạt động kinh doanh đa ngành, vừa là hoạt động kinh doanh đặc thù. Tính đặc thù của kinh doanh bất động sản thể hiện ở việc thị trường bất động sản là thị trường không hoàn hảo, cung phản ứng chậm hơn cầu; thiếu thông tin thị trường, khó so sánh được; một số loại hàng hoá bất động sản mang tính độc quyền, gắn với vị trí cảnh quan môi trường; Cầu phức tạp, chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố cả tâm linh, tập quán thói quen. Tính đa ngành của kinh doanh bất động sản thể hiện qua việc liên quan đến nhiều khâu của nền kinh tế. Cụ thể, đối với khâu sản xuất, việc kinh doanh bất động sản liên quan đến những vấn đề kinh tế đất đai như: định giá, khả năng sinh lợi… những vấn đề kỹ thuật đất đai như: thổ nhưỡng, nông hoá, tầng địa chất… những vấn đề đầu tư xây dựng các công trình trên đất như: kỹ thuật (ý tưởng, kiến trúc, mỹ thuật), kinh tế (vốn đầu tư, chi phí xây dựng, giá thành, lợi nhuận...); đối với khâu lưu thông, việc kinh doanh bất động sản liên quan đến những vấn đề như: Marketing, bán, cho thuê, môi giới, thế chấp, bảo hiểm, tư vấn, sau bán hàng, pháp lý...; hay đổi với khâu đầu tư và khai thác bất động sản, việc kinh doanh bất động sản lại liên quan đến quá trình đầu tư, nguồn vốn sử dụng, những vấn đề tài chính bất động sản, quản trị bất động sản... Do vậy, nhà kinh doanh phải có sự am hiểu, có kiến thức rộng, có kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực:
kinh tế, kỹ thuật, xã hội, chính trị... đồng thời phải có những kiến thức đặc thù của ngành, từ đó mới có thể đưa ra những quyết định chính xác và có hiệu quả.
1.2.4. Vai trò của kinh doanh bất động sản.
- Đối với khách hàng: Với tư cách là trung gian trong các bên giao dịch liên quan đến bất động sản, kinh doanh dịch vụ bất động sản đóng vai trò tư vấn, là cầu nối cho khách hàng trong các giao dịch bất động sản
- Đối với thị trường bất động sản: Thông qua việc kết hợp kết nối bên cung, cầu bất động sản, hoạt động kinh doanh dịch vụ bất động sản sẽ làm tăng số lượng giao dịch bất động sản lành mạnh, các thông tin về môi giới bất động sản được cung cấp một cách chính xác, trung thực, đầy đủ, nhằm hạn chế những rủi ro và đảm bảo an toàn về mặt pháp lý khi tham gia xác lập dịch vụ về bất động sản. Qua đó, giúp cho thị trường Bất động sản hoạt động công khai, minh bạch.
- Đối với Nhà nước:
+ Giúp Nhà nước kiểm soát thị trường do hoạt động kinh doanh dịch vụ bất động sản phải tuân thủ các quy định của pháp luật và đạo đức nghề nghiệp => Cơ quan quyền lực nhà nước kiểm soát được các hoạt động trên thị trường.
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần Xây dựng Sông Hồng - 1
- Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần Xây dựng Sông Hồng - 2
- Thực Trạng Phát Triển Kinh Doanh Bất Động Sản Của Công Ty Cổ Phần Xây Dựng Sông Hồng.
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Phát Triển Kinh Doanh Của Công Ty Cổ Phần Xây Dựng Sông Hồng.
- Quan Điểm Và Định Hướng Phát Triển Kinh Doanh Bất Động Sản Của Công Ty Cổ Phần Xây Dựng Sông Hồng.
Xem toàn bộ 69 trang tài liệu này.
+ Hoạt động kinh doanh dịch vụ bất động sản sẽ giúp Nhà nước hoàn thiện cơ chế chính sách do hoạt động thực tiễn tiếp xúc tư vấn cho khách hàng, các nhà kinh doanh dịch vụ sẽ nhận biết đc những bất cập trong chính sách Pháp luật về bất động sản và những khoảng trống Pháp luật trong lĩnh vực này.
+ Hoạt động kinh doanh dịch vụ bất động sản góp phần ổn định trật tự an ninh xã hội.
1.2.5. Ý nghĩa của kinh doanh bất động sản.
Kinh doanh bất động sản là một ngành phát triển lâu đời trên thế giới nhưng ở nước ta thì thực sự chỉ mới phát triển trong thời gian ngắn. Do vậy những vấn đề liên quan đến kinh doanh bất động sản, thị trường bất động sản chỉ mới bước đầu được đại bộ phận người dân tiếp cận và dần hình thành cơ chế hoạt động như đối với các lĩnh vực khác đã có từ lâu trong hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh bất động sản là một hoạt động kinh doanh mang tính đặc thù trong hoạt động thương mại. Đối với lĩnh vực kinh doanh bất động sản ngoài yếu tố sinh lợi thì vấn đề đảm bảo về sự ổn định, phát triển kinh tế xã hội phải được quan tâm đúng mức.
1.3. Một số lý luận về phát triển kinh doanh bất động sản.
1.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh bất động sản.
Từ các khái niệm, đặc điểm của kinh doanh bất động sản như đã phân tích có thể đưa ra một số tiêu chí chủ yếu đánh giá chất lượng công tác quản trị kinh doanh bất động sản, cụ thể như sau:
1.3.1.1. Chỉ tiêu về quy mô.
- Giá trị sản xuất kinh doanh: Giá trị sản xuất là chi tiêu phản ánh toàn bộ sản phẩm vật chất và dịch vụ do lao động của doanh nghiệp tạo ra trong một thời kỳ nhất định thường tính cho một năm.
- Doanh thu: Là toàn bộ số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm, cung cấp dịch vụ, hoạt động tài chính, và các hoạt động khác của doanh nghiệp.
Doanh thu và chi phí liên quan đến cùng một giao dịch phải được ghi nhận đồng thời theo nguyên tắc phù hợp và phải theo năm tài chính. Doanh thu (kể cả doanh thu nội bộ) phải được theo dõi riêng biệt theo từng loại doanh thu nhằm phục vụ cho việc xác định đầy đủ chính xác kết quả kinh doanh theo yêu cầu quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu trong kỳ kế toán phát sinh các khoản giảm trừ doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, như chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại thì được hạch toán riêng biệt. Các khoản giảm trừ doanh thu được trừ vào doanh thu ghi nhận ban đầu để xác định doanh thu thuần làm căn cứ xác định kết quả kinh doanh của kỳ kế toán.
- Mức tăng tuyệt đối: Là mức chênh lệch tuyệt đối quy mô sản lượng (doanh thu) giữa hai kỳ cần so sánh. Công thức: H = K1 - K0
Trong đó: H: Mức tăng sản lượng (doanh thu) tuyệt đối
+ K1: Sản lượng (doanh thu,) kỳ nghiên cứu
+ K0: Sản lượng (doanh thu) kỳ gốc
- Lợi nhuận trước thuế:
Lợi nhuận trước thuế là một chỉ tiêu dùng để đánh giá khả năng thu được lợi nhuận của công ty, bằng thu nhập trừ đi các chi phí, nhưng chưa trừ tiền (trả) lãi và thuế thu nhập. Công thức tính như sau: Lợi nhuận trước thuế = Doanh thu - Chi phí
+ Tỷ lệ doanh thu năm thực hiện so với kế hoạch trong từng năm và giai đoạn 5 năm.
Doanh thu thời kỳ thực hiện
Tỷ lệ thực hiện doanh thu =
Doanh thu kế hoạch
+ Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế năm thực hiện so với kế hoạch trong từng năm và giai đoạn 5 năm.
Tỷ lệ thực hiện lợi nhuận trước thuế
Lợi nhuận trước thuế thời kỳ thực hiện
=
Lợi nhuận trước thuế doanh thu kế hoạch
1.3.1.2. Chỉ tiêu về cơ cấu sản phẩm trên thị trường.
Cơ cấu sản phẩm cho thấy mặt hàng kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp, tỉ trọng của mặt hàng hoặc ngành hàng đó trong tổng sản lượng hoặc doanh thu của doanh nghiệp. Cơ cấu tiêu thụ của từng mặt hàng trong tổng các mặt hàng được thể hiện qua tỉ trọng sản lượng (doanh thu) các mặt hàng, được tính theo công thức:
Ki
Trong đó:
DA =
x 100%
K
DA: Tỷ trọng sản lượng (doanh thu) mặt hàng i.
Ki: Sản lượng (doanh thu) mặt hàng i.
K: Tổng sản lượng (doanh thu) các mặt hàng của công ty.
Sự chuyển dịch trong cơ cấu sản phẩm giúp doanh nghiệp có những định hướng tốt hơn trong việc phát triển kinh doanh sản phẩm nhằm đáp ứng được tốt hơn những yêu cầu của thị trường, giúp doanh nghiệp chú trọng tới những sản phẩm chủ lực mà doanh nghiệp có ưu thế trên thị trường. Đồng thời phát hiện ra những sản phẩm chưa thật sự phát triển xứng với tiềm năng của nó để có biện pháp chính sách kinh doanh phù hợp.
1.3.1.3. Chỉ tiêu về hiệu quả.
LN: Lợi nhuận
+ Chỉ tiêu lợi nhuận: LN = M – CP Trong đó: { M: Doanh thu
CP: Chi phí
+ Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận:
LN
HQ =
M
x 100
HQ: Tỷ suất lợi nhuận
Trong đó: {LN: Tổng lợi nhuận đạt được trong kỳ ( Lợi nhuận trước thuế)
M: Doanh thu đạt được trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kỳ nhất định doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đồng doanh thu bán hàng thuần. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp càng cao. Chỉ tiêu này được sử dụng để phân tích hiệu quả thương mại của các công ty.
Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả, là nguồn kích thích vật chất của bất cứ hoạt động thương mại nào. Tuy nhiên, lợi nhuận không phải là tất cả, hiệu quả thương mại không chỉ có ý nghĩa là mức lợi nhuận nhiều hay ít, mặc dù trong thực tế các doanh nghiệp chỉ tồn tại và phát triển trên cơ sở của lợi nhuận, mà còn là hiệu quả sử dụng các nguồn lực thương mại như lao động, vốn…
1.3.2. Các nguyên tắc kinh doanh bất động sản.
Theo Điều 4. Nguyên tắc kinh doanh bất động sản - Luật Kinh doanh Bất động sản năm 2014, kinh doanh bất động sản phải đáp ứng các nguyên tắc như sau:
- Bình đẳng trước pháp luật; tự do thỏa thuận trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thông qua hợp đồng, không trái quy định của pháp luật.
- Bất động sản đưa vào kinh doanh phải có đủ điều kiện theo quy định của Luật này.
- Kinh doanh bất động sản phải trung thực, công khai, minh bạch.
- Tổ chức, cá nhân có quyền kinh doanh bất động sản tại khu vực ngoài phạm vi bảo vệ quốc phòng, an ninh theo quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh doanh bất động sản.
1.4.1. Nhân tố vĩ mô.
1.4.1.1. Các yếu tố kinh tế.
Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một vùng cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh bất động sản ở trong vùng. Nền kinh tế phát triển làm gia tăng, nhu cầu sử dụng đất và bất động sản trong tất cả các ngành, trong khi quỹ đất có giới hạn, đòi hỏi phải có sự cân đối đất đai và bất động sản cho tất cả các ngành. Điều này dẫn tới sự gia tăng của các quan hệ giao dịch về đất đai và bất động sản trên thị trường và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển. Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển, số lượng lao động có việc làm cũng như thu nhập của người lao động tăng lên, làm tăng khả năng thanh toán của họ đối với bất động sản trên thị trường. Do vậy, bất động sản được tiêu thụ nhanh hơn, kích thích các nhà đầu tư tăng cường thêm các bất động sản mới vào nguồn cung trên thị trường bất động sản.
- Tỷ lệ lãi suất: Tỷ lệ lãi suất có thể tác động đến mức cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Tỷ lệ lãi suất là rất quan trọng khi người tiêu dùng thường xuyên vay tiền để thanh toán các khoản mua hàng của mình.
- Tỷ lệ lạm phát: Lạm phát có thể gây xáo trộn nền kinh tế làm cho sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tỷ lệ lãi suất tăng và sự biến động của đồng tiền trở nên không lường trước được. Nếu lạm phát tăng liên tục thì các hoạt động đầu tư trở thành công việc hoàn toàn may rủi. Lạm phát làm cho tương lai kinh doanh của doanh nghiệp trở nên khó dự đoán trước. Nếu trong một môi trường mà lạm phát mạnh sẽ không thể nào dự đoán giá trị thực của lợi nhuận có thể thu được từ một dự án. Sự bất trắc này làm cho các công ty không muốn bỏ tiền vào đầu tư. Hành động này làm hạn chế sự hoạt động của nền kinh tế và cuối cùng nó đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng. Do vậy, lạm phát cao cũng là một nguy cơ đối với doanh nghiệp.
1.4.1.2. Các yếu tố văn hóa- xã hội.
Các yếu tố văn hoá xã hội ảnh hưởng đến cuộc sống và hành vi của con người, qua đó, ảnh hưởng đến cơ cấu nhu cầu, tới hành vi mua sắm, khuynh hướng tiêu dùng của khách hàng, các yếu tố văn hoá xã hội bao gồm các khía cạnh như:
- Dân số và xu hướng biến động của dân số;
- Các hộ gia đình và xu hướng vận động;
- Sự di chuyển của dân cư:
- Tôn giáo;
- Lối sống và thái độ đối với chất lượng cuộc sống;
- Phụ nữ trong lực lượng lao động;
- Nghề nghiệp;
- Tính linh hoạt của người tiêu dùng.
Văn hoá xã hội còn tác động đến tạo lập nề nếp văn hoá doanh nghiệp, liên quan đến mối quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp với nhau và với khách hàng. Các doanh nghiệp quan tâm đến sự biến động của các yếu tố trên để sớm nhận ra sự thay đổi trong khuynh hướng và hành vi mua sắm của người tiêu dùng, từ đó doanh nghiệp biết nên thay đổi phương thức kinh doanh như thế nào cho phù hợp.
1.4.1.3. Dân số và quy mô, kết cấu dân số.
Đây là một yếu tố rất quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh bất động sản. Tất cả mọi người trong xã hội đều có các nhu cầu về ăn, ở, mặc, học hành, làm việc, vui chơi giải trí... Những nhu cầu này của con người làm xuất hiện cầu về bất động sản cho tất cả các ngành, các lĩnh vực cung ứng các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ để đáp ứng những nhu cầu này. Sự gia tăng dân số tự nhiên hay cơ học đều làm gia tăng các nhu cầu thiết yếu trên, và đồng thời cũng làm tăng cầu bất động sản trên thị trường.
Trước hết, sự gia tăng dân số làm gia tăng nhu cầu về nhà ở và đất ở. Dân số tăng một mặt làm tăng quy mô gia đình, dẫn đến nhu cầu mở rộng diện tích nhà ở. Mặt khác, dân số tăng cũng làm tăng số lượng các gia đình độc lập, dẫn đến nhu cầu về các căn hộ mới. Đây là nguyên nhân gây áp lực lớn nhất đến sự gia tăng cầu về hàng hoá bất động sản.
Thứ hai, sự gia tăng dân số làm tăng nhu cầu về lương thực thực phẩm và việc làm. Điều này làm tăng nhu cầu về đất đai và các bất động sản phục vụ sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đất sản xuất nông nghiệp.
Thứ ba, dân số tăng kéo theo sự gia tăng nhu cầu về các hoạt động xã hội và các dịch vụ như y tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao, vui chơi giải trí... Các nhu cầu này cũng làm tăng cầu về các bất động sản liên quan. Bên cạnh quy mô dân số thì kết cấu dân số cũng ảnh hưởng tới cầu bất động sản. Số người đến độ tuổi kết hôn
cao làm gia tăng nhu cầu về các căn hộ độc lập. Sự gia tăng số trẻ em đến tuổi vị thành niên cũng làm gia tăng nhu cầu phải mở rộng diện tích của căn nhà. Số lượng người đến độ tuổi lao động tăng thì làm tăng nhu cầu về bất động sản phục vụ sản xuất kinh doanh... Sự gia tăng cầu về bất động sản gây sức ép làm tăng giá bất động sản. Giá tăng sẽ khuyến khích các nhà đầu tư xây dựng thêm các bất động sản mới, làm tăng nguồn cung trên thị trường. Quá trình này sẽ diễn ra theo chiều ngược lại nếu như cầu về bất động sản trên thị trường giảm xuống.
1.4.1.4. Các yếu tố liên quan đến môi trường pháp lý.
Luật pháp của Nhà nước là một yếu tố có tính chất quyết định đến sự hình thành và phát triển của thị trường bất động sản ở một quốc gia. Nhà nước ban hành luật pháp về bất động sản để tạo ra môi trường pháp lý cho các hoạt động của thị trường bất động sản, đồng thời Nhà nước còn sử dụng luật pháp như là một công cụ để kiểm soát và điều tiết thị trường bất động sản. Các văn bản pháp luật mà Nhà nước thường dùng để điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực bất động sản như: Luật đất đai, Luật nhà ở... Các chủ thể khi tham gia vào hoạt động kinh doanh bất động sản thì bắt buộc phải nắm rõ các quy định trong các văn bản pháp luật này.
Luôn đứng trên quan điểm xã hội, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để đảm bảo việc sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế sẽ mang lại hiệu quả cao nhất cho xã hội. Do vậy, ngoài các bất động sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước thì Nhà nước vẫn nắm một số quyền định đoạt nhất định đối với các bất động sản thuộc quyển sở hữu hoặc sử dụng của các tổ chức, cả nhân. Đây là một trong những nguyên nhân tạo nên tính chất đặc thù của hàng hoá bất động sản, đồng thời ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của thị trường bất động sản.
Chính sách của Chính phủ và chính quyền của các địa phương cũng là một nhân tố có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bất động sản. Trước hết là chính sách khuyến khích sản xuất theo ngành, lãnh thổ, vùng kinh tế... kéo theo sự gia tăng của các cơ sở sản xuất kinh doanh, cùng với sự gia tăng dân số làm tăng nhu cầu về bất động sản, tạo động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển để đáp ứng sự gia tăng của cầu bất động sản. Mặt khác, nhà nước với mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội của mình trong lĩnh vực bất động sản đã đưa ra những ưu đãi nhất định cho các nhà đầu tư để thu hút đầu tư vào một số loại hình bất động sản theo mục tiêu của Nhà nước. Ví dụ như việc Nhà nước miễn tiền sử dụng đất cho các chủ đầu tư trong các dự án xây nhà chung cư cao tầng nhằm tiết kiệm đất đai và giải quyết nhu cầu nhà ở cho người dân, thông qua đó kiểm soát và điều tiết thị trường bất động sản. Tham gia đầu tư vào những lĩnh vực này, nhà đầu tư sẽ có lợi nhuận cao, còn Nhà nước sẽ thực hiện được các mục tiêu xã hội của mình.
1.4.2. Nhân tố vi mô.
Thị trường và khả năng phát triển thị trường của doanh nghiệp luôn phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tố phản ánh tiềm lực của một doanh nghiệp cụ thể. Một thị trường có thể phù hợp để phát triển với doanh nghiệp này nhưng lại không thể áp dụng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp khác, tất cả đều phải xuất phát từ nội lực doanh nghiệp quyết định.
1.4.2.1. Nguồn nhân lực.
Yếu tố nhân lực được coi là tài sản vô cùng quý báu cho sự phát triển thành công của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp. Với một đội ngũ nhân lực tốt, doanh nghiệp có thể được làm đựợc tốt tất cả những gì như mong muốn, đội ngũ nhân lực này sẽ làm tăng các nguồn lực khác cho doanh nghiệp khác lên một cách nhanh chóng.
Một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giàu kinh nghiệm, trình độ cao, năng động, linh hoạt và hiểu biết... sẽ đem lại cho doanh nghiệp không chỉ là lợi ích trước mắt như tăng doanh thu, tăng lợi nhuận mà cả uy tín của doanh nghiệp. Họ sẽ đưa ra nhiều ý tưởng chiến lược sáng tạo phù hợp với sự phát triển và trưởng thành của doanh nghiệp cũng như phù hợp với sự thay đổi của thị trường.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực sản xuất với trình độ tay nghề cao, ý thức kỹ luật, lòng hăng say lao động sẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm.
1.4.2.2. Cơ sở vật chất.
Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ tiên tiến phù hợp với quy mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ nâng cao năng lực sản xuất, làm tăng khả năng của doanh nghiệp lên rất nhiều. Với một cơ sở vật chất tốt, chất lượng sản phẩm sẽ được nâng lên cao hơn cùng với việc hạ giá thành sản phẩm kéo theo sự giảm giá bán trên thị trường, khả năng chiến thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ rất lớn. Ngược lại, không một doanh nghiệp nào lại có khả năng cạnh tranh cao khi mà công nghệ sản xuất lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ sẽ làm giảm chất lượng sản phẩm, tăng chi phí sản xuất. Nguồn lực vật chất có thể là:
+ Tình trạng trình độ máy móc công nghệ, khả năng áp dụng công nghệ mới tác động đến chất lượng, kiểu dáng, hình thức giá thành sản phẩm.
+ Mạng lưới phân phối: Phương tiện vận tải, cách thức tiếp cận khách hàng.
+ Vị trí địa lý của doanh nghiệp cũng có thể tác động đến chi phí sản xuất (đất đai, nhà cửa, giao thông đi lại,vị trí gần nguồn nguyên liệu, sự thuận tiện của khách hàng...)
1.4.2.3. Nguồn vốn.