Phát triển du lịch bền vững ở Hà Tĩnh - 2


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG


1.1. Cơ sở lý luận phát triển du lịch bền vững

1.1.1. Một số khái niệm

1.1.1.1. Du lịch

Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về du lịch, tiêu biểu có một số định nghĩa như:

Theo liên hiệp các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of Official Travel Organization: IUOTO): Du lịch được hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích không phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống [46].

Theo Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch họp tại Roma - Italia (21.08.1963), các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa du lịch: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ [14, tr.8].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Theo luật Du lịch Việt Nam năm 2005, du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định [20, tr.8].

Trong giới hạn của luận văn, luận văn sử dụng khái niệm du lịch trong luật du lịch năm 2005.

Phát triển du lịch bền vững ở Hà Tĩnh - 2

1.1.1.2. Phát triển bền vững

Phát triển bền vững là một thuật ngữ được nhiều quốc gia và các chính trị gia sử dụng rộng rãi, mặc dù đến nay quan niệm này còn tương đối mới mẻ


và còn chưa thống nhất về cách hiểu, cách diễn đạt. Ví dụ như cuốn từ điển Đa dạng phát triển sinh học bền vững cho rằng, sự phát triển đem lại lợi ích lâu dài về kinh tế, xã hội và môi trường mà có quan tâm đến nhu cầu của thế hệ tương lai được gọi là phát triển bền vững (PTBV); còn theo định nghĩa cổ điển của Uỷ ban môi trường và phát triển thế giới thì: “PTBV là sự phát triển nhằm thoả mãn những nhu vầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến nhu cầu thoả mãn của thế hệ mai sau” [8, tr.35].

PTBV phải đạt được sự cân bằng tổng thể trong ba lĩnh vực kinh tế - xã hội - môi trường. Đây chính là ba thành tố trụ cột của PTBV mà bất cứ quốc gia hay vùng lãnh thổ nào muốn đạt được mục tiêu PTBV đều phải quan tâm. Sự phát triển trong từng lĩnh vực phải gắn bó mật thiết, hữu cơ, biện chứng với nhau. PTBV phải đảm bảo rằng sản xuất, sinh hoạt của con người luôn nằm trong giới hạn kiểm soát được. Khả năng tải của môi trường sẽ chịu đựng mức ô nhiễm có giới hạn mà nếu vượt quá mức ấy sẽ gây tình trạng mất cân bằng sinh thái. Nền kinh tế đạt được sự tăng trưởng dài hạn, ổn định kèm theo các điều kiện sống của con người được nâng cao. Môi trường sống ngày càng được cải thiện, trong sạch hơn. Những thành tựu của sự phát triển được thế hệ mai sau để kế thừa và phát huy. Thông thường sự bình đẳng giữa các thế hệ được hiểu là sẽ không đạt được nếu thiếu đi sự công bằng xã hội trong hiện tại hoặc các hoạt động của nhóm kinh tế này gây tổn hại đến lợi ích và cuộc sống của nhóm người khác.

Có thể nói rằng, tất cả các sự vật hiện tượng, trong đó bao gồm cả con người đều nằm trong quá trình vận động, phát triển nhưng sự phát triển phải đáp ứng đầy đủ được ba chức năng cơ bản là: tạo cho con người một không gian sống với phạm vi và chất lượng tiện nghi hơn; cung cấp cho con người các tài nguyên để sản xuất; xử lý, đồng hoá các phế thải sản xuất và sinh hoạt, đảm bảo các phế thải không gây ô nhiễm môi trường.

PTBV nhằm đạt được nhiều mục tiêu khác nhau


Mục tiêu kinh tế: tăng trưởng, hiệu quả và ổn định.

Mục tiêu xã hội: công bằng, việc làm đầy đủ, an ninh, giáo dục, y tế, sự tham gia của cộng đồng và bản sắc văn hoá.

Mục tiêu môi trường: sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên có thể tái tạo được và không thể tái tạo được, luôn tạo ra môi trường trong sạch cho con người.

Giữa các mục tiêu có mối liên hệ đặc biệt, nếu bỏ qua một mục tiêu sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của các mục tiêu khác. Việc giải quyết cân đối giữa các mục tiêu là thách thức to lớn đối với các quốc gia và các vùng lãnh thổ.

1.1.1.3. Du lịch bền vững

Theo World Conservation Union, 1996, du lịch bền vững là: “việc di chuyển và tham quan đến các vùng tự nhiên một cách có trách nhiệm với môi trường để tận hưởng và đánh giá cao tự nhiên (và tất cả những đặc điểm văn hóa kèm theo, có thể là trong quá khứ và cả hiện tại) theo cách khuyến cáo về bảo tồn, có tác động thấp từ du khách và mang lại những lợi ích cho sự tham gia chủ động về kinh tế - xã hội của cộng đồng địa phương” [39].

Theo định nghĩa của WTO đưa ra tại hội nghị về môi trường và phát triển của Liên Hợp Quốc tại Rio de Janero năm 1992 thì: “Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du lịch trong tương lai. DLBV sẽ có kế hoạch quản ký các nguồn tài nguyên nhằm thoả mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội thẩm mỹ của con người trong khi đó vẫn duy trì được sự toàn vẹn về văn hoá, đa dạng sinh học, sự phát triển của hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho cuộc sống của con người”[39].

DLBV ở Việt Nam là một khái niệm còn mới mẻ. Mặc dù còn những quan điểm chưa thật sự thống nhất về khái niệm “Phát triển du lịch bền vững” (PTDLBV), tuy nhiên đến nay đa số các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch và các lĩnh vực khác có liên quan ở Việt Nam đều cho rằng: PTDLBV là hoạt


động khai thác có quản lý các giá trị tự nhiên và nhân văn nhằm thoả mãn các nhu cầu đa dạng cuả khách du lịch, có quan tâm đến các lợi ích kinh tế dài hạn trong khi vẫn đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên, duy trì được sự toàn vẹn về văn hoá để phát triển về hoạt động du lịch trong tương lai, cho công tác bảo vệ môi trường và góp phần nâng cao mức sống của cộng đồng địa phương.

Hiến chương DLBV được đưa ra tại hội nghị thế giới về DLBV tổ chức ở Lanzarote, Canary Islands, Tây Ban Nha, trong đó nêu ra quan điểm về DLBV như sau: “nhận thức được rằng du lịch, một hiện tượng mang tính hai mặt ở chỗ du lịch vừa có khả năng đóng góp một cách tích cực vào những thành tựu kinh tế - xã hội cũng như chính trị, đồng thời nó cũng một phần dẫn tới sự xuống cấp về môi trường và mất đi những bản sắc của từng địa phương, phải được xem xét giải quyết trên cơ sở một hệ tư tưởng có tính toàn cầu” [47].

Đứng trên góc độ từ những địa phương cung cấp du lịch thì: du lịch bền vững là hoạt động du lịch mà giảm thiểu các chi phí và nâng cao tối đa các lợi ích của du lịch cho môi trường tự nhiên và cộng đồng địa phương và có thể được thực hiện lâu dài nhưng không ảnh hưởng xấu đến nguồn lợi mà họ phụ thuộc vào.

Như vậy, các khái niệm, quan điểm về du lịch bền vững có khác nhau trong ngôn ngữ nói, nhưng nhìn chung đều dựa trên khái niệm phát triển bền vững và phát triển thêm, chi tiết, cụ thể hơn. Trong khái niệm Du lịch bền vững, ngoài việc đảm bảo nhu cầu của hiện tại mà không ảnh hưởng đến nhu cầu của thế hệ tương lai nói chung, bên cạnh đó còn chỉ ra mối liên hệ giữa nhu cầu của khách du lịch và cuộc sống của người dân bản địa.

Tóm lại, du lịch bền vững là hoạt động du lịch đảm bảo thỏa mãn ba điều kiện:

+ Hoạt động du lịch để tăng trưởng kinh tế.

+ Hoạt động du lịch để phát triển văn hóa - xã hội.


+ Hoạt động du lịch để bảo tồn và phát triển môi trường tự nhiên.

1.1.2. Mục tiêu của du lịch bền vững

Phát triển DLBV nhằm đạt được những mục tiêu:

Một là: Phát triển, gia tăng sự đóng góp của du lịch vào kinh tế và môi trường.

Hai là: Cải thiện tính công bằng xã hội trong phát triển

Ba là: Cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng bản địa Bốn là: Đáp ứng cao độ nhu cầu của du khách

Năm là: Duy trì chất lượng môi trường

Đến nay, chiến lược để đạt đến DLBV ở Việt Nam còn chưa được xây dựng hoàn chỉnh, đang cần cố gắng để được chấp nhận rộng rãi. Mỗi một tình huống đòi hỏi những tiếp cận và giải pháp khác nhau. Tính đa dạng tự nhiên, văn hoá, xã hội phải được bảo vệ; phát triển du lịch phải được lồng ghép vào chiến lược phát triển của địa phương và quốc gia; người địa phương phải được tham gia vào việc hoạch định kế hoạch và triển khai hoạt động du lịch, hoạt động triểu khai nghiên cứu và giám sát cần được tiến hành. Theo nguồn IUCN, 1998 thì những nguyên tắc về tính bền vững của du lịch đã được tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới thông qua, cụ thể là:

1. Sử dụng tài nguyên một cách bền vững, bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên, xã hội và văn hoá. Việc sử dụng bền vững tài nguyên là nền tảng cơ bản nhất trong việc phát triển lâu dài.

2. Giảm tiêu thụ quá mức và xả thải, nhằm giảm chi phí khôi phục các suy thoái môi trường, đồng thời cũng nâng cao chất lượng du lịch.

3. Duy trì tính đa dạng: duy trì và phát triển tính đa dang của tự nhiên, xã hội và văn hoá là rất quan trọng đối với DLBV, tạo ra sức bật cho ngành du lịch.

4. Lồng ghép du lịch vào trong quy hoạch phát triển địa phương và quốc gia.


5. Hỗ trợ nền kinh tế địa phương: du lịch phải hỗ trợ các hoạt động kinh tế địa phương, phải tính toán chi phí môi trường vừa để bảo vệ nền kinh tế bản địa cũng như tránh gây hại cho môi trường.

6. Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương: điều này không chỉ đem lại lợi ích cho cộng đồng, cho môi trường mà còn tăng cường đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của du khách.

7. Sự tư vấn của các nhóm quyền lợi và công chúng: tư vấn giữa công nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương, các tổ chức và cơ quan là đảm bảo cho sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy sinh.

8. Đào tạo cán bộ kinh doanh du lịch, nhằm thực thi các sáng kiến và giải pháp DLBV, nhằm cải thiện chất lượng các sản phẩm du lịch.

9. Marketing du lịch một cách có trách nhiệm: phải cung cấp cho du khách những thông tin đầy đủ vá có trách nhịêm nhằm nâng cao sự tôn trọng của du khách đến môi trường tự nhiên, xã hội và văn hoá khu du lịch, qua đó góp phần thoả mãn nhu cầu của du khách.

10. Triển khai các nghiên cứu, nhằm hỗ trợ giải quyết các vấn đề, mang lại lợi ích cho khu du lịch, cho nhà kinh doanh du lịch và cho du khách.

1.1.3. Một số tiêu chí đánh giá phát triển du lịch bền vững

Có nhiều tiêu chí để đánh giá phát triển du lịch bền vững, trong đó có hai cách đánh giá được sử dụng nhiều nhất đó là đánh giá phát triển du lịch bền vững theo khả năng tải và đánh giá dựa theo hệ thống chỉ thị của môi trường.

1.1.3.1. Khả năng tải

Khả năng tải là số lượng người cực đại mà điểm du lịch có thể chấp nhận, không gây suy thoái hệ sinh thái tự nhiên, không gây xung đột giữa cộng đồng địa phương và du khách và không gây suy thoái nền kinh tế truyền thống của cộng đồng bản địa. Tuỳ theo cách tính trên mà ta có ba giá trị khả năng tải như sau: Khả năng tải sinh thái, khả năng tải xã hội, khả năng tải kinh tế.


Khả năng tải sinh thái

Giá trị này lúc đầu được xác định theo năng lực của hệ sản xuất kinh doanh cung ứng dịch vụ cho du lịch, hoặc năng lực của khu vực có thể tiếp nhận du khách. Ví dụ: Số giường nghỉ, khả năng vận tải của đường sá, hạ tầng cơ sở, lượng nước cấp, diện tích bãi biển… (Bull, 1991). Về sau, khả năng tải sinh thái được mở rộng hơn bằng cách lồng ghép các giá trị sinh thái và môi trường. Theo cách đánh giá này, khả năng tải sinh thái được hiểu là áp lực sử dụng lãnh thổ du lịch cực đại mà không xảy ra suy thoái. Điều đó có nghĩa là bất cứ dấu hiệu suy thoái môi trường nào cũng đều chứng tỏ sự vượt quá ngưỡng của khả năng tải. Getz, 1983 cho rằng, khả năng tải sinh thái là “một giới hạn mà vượt qua đó, tài nguyên bắt đầu bị huỷ hoại”. (Ví dụ các loài động thực vật hoang dại biến mất dưới áp lực của du lịch làm suy thoái Habitat, các công trình kiến trúc bị xuống cấp đến mức hư hỏng…) [42].

Mathieson và Wall (1992) xác định, khả năng tải sinh thái là “số lượng người có thể sử dụng khu du lịch mà không tạo ra một sự xuống cấp quá mức (không chấp nhận được) của môi trường tự nhiên [42].

Carpenter R.A. và Maragos J.E. (1989) thì cho rằng: “Khả năng tải sinh thái là số người mà môi trường có thể nuôi dưỡng; số lượng này dao động trong nội bộ của hệ tự nhiên xung quanh giá trị biến động tự nhiên. Hoạt động quản lý có thể can thiệp vào hệ tự nhiên để tăng, giảm hoặc bình ổn khả năng tải, nhưng kết quả của sự can thiệp phải nằm trong ranh giới của khả năng tải bền vững (Substaining Capacity) của hệ thống tự nhiên hoặc hệ thống được quản lý.

Khi sử dụng tài nguyên thiên nhiên vào phát triển du lịch bền vững trước hết phải có các tiêu chí định lượng mức độ bền vững của môi trường tự nhiên qua đó đánh giá và nêu lên mục tiêu mà du lịch bền vững cần đạt được.

Công thức tính bền vững môi trường quốc tế, quốc gia 1/SD = [∑P] * [HD/P]* [NT/HD] * [EI/NT]

Trong đó:


P: Số lượng dân cư

HD: Hàng hoá và dịch vụ

NT: Năng lượng và tài nguyên EI : Tác động môi trường

SD: Giá trị của tính bền vững của môi trường

Yếu tố [∑P] phản ánh ảnh hưởng của sức ép dân số tới sự phát triển bền vững.

Yếu tố HD/P phản ánh bức tranh tiêu thụ xã hội phát triển bền vững tính theo đơn vị hàng hoá và dịch vụ bình quân trên đầu người.

Yếu tố NT/HD: số lượng năng lượng và tài nguyên được sử dụng để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ.

EI/NT: tác động của môi trường lên tài nguyên thiên nhiên và năng lượng. Yếu tố này phụ thuộc chủ yếu vào tự nhiên, ví dụ: thiên tai, hạn hán, lũ lụt, động đất… và cũng có thể là hậu quả của việc khai thác.

Yếu tố thứ 3 và thứ 4: NT/HD và EI/NT phản ánh các khía cạnh kĩ thuật công nghệ.

Như vậy, giá trị của tính bền vững môi trường tỷ lệ nghịch với sức ép dân số, mức tiêu thụ xã hội của mỗi người dân, mức độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong mỗi sản phẩm hàng hoá dịch vụ và sự tác động của điều kiện tự nhiên, khí hậu.

Du lịch bền vững trước hết phải đảm bảo không gian sống của con người tại một khu vực lãnh thổ nhất định, thể hiện ở chỗ mật độ dân số, mật độ hoạt động của con người không vượt quá khả năng chịu tải của khu vực đó. Lượng chất thải ra ở các điểm du lịch phải nhỏ hơn khả năng tái sử dụng, tái chế, phân huỷ tự nhiên.

Hiện nay, không có một con số cụ thể để quy định giá trị của tính bền vững của môi trường chung cho tất cả các địa phương, nhưng căn cứ vào từng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/08/2022