Phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng TMCP Việt Á - 2


2.1.4.3 Chủ thẻ

Là người được NHPH cấp thẻ để sử dụng. Chủ thẻ là người duy nhất được quyền sử dụng thẻ của mình. Mỗi chủ thẻ được NHPH cấp cho một số PIN. Chủ thẻ có thể sử dụng thẻ của mình để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ tại các CSCNT và rút tiền mặt tại ATM hoặc điểm ứng tiền mặt. Chủ thẻ có trách nhiệm:

 Bảo quản thẻ không để kẻ khác lấy cắp số hoặc lợi dụng.

 Sử dụng thẻ đúng mục đích theo quy định của NHPH.

 Không giao thẻ và PIN cho người khác, chủ thẻ phải chịu rủi ro khi để xảy ra giả mạo thẻ để rút tiền hoặc thanh toán.

 Có trách nhiệm thanh toán, hoàn trả các khoản tiền đã sử dụng và lãi cho NHPH nếu sử dụng thẻ tín dụng.

 Khi mất thẻ phải báo ngay cho NHPH để kịp thời quản lý.

2.1.4.4 Ngân hàng thanh toán thẻ và (NHTT) và ngân hàng đại lý:

Là ngân hàng chấp nhận các giao dịch thẻ như một phương tiện thanh toán thông qua việc kí kết các hợp đồng chấp nhận thẻ với các điểm cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Qua việc kí kết hợp đồng, các địa điểm cung cấp hàng hóa, dịch vụ này được chấp nhận vào hệ thống thanh toán thẻ của ngân hàng, ngân hàng sẽ cung cấp các thiết bị đọc thẻ, đào tạo nhân viên về dịch vụ thanh toán thẻ, quản lí và xử lí những giao dịch thẻ diễn ra tại địa điểm này. Trên thực tế, rất nhiều ngân hàng vừa là ngân hàng phát hành,vừa là ngân hàng thanh toán.

NHTT thẻ là các ngân hàng được NHPH thẻ uỷ quyền thực hiện nghiệp vụ thanh toán thẻ. Nếu ngân hàng này chấp thuận thanh toán thẻ quốc tế thì phải là thành viên chính thức hoặc liên kết của tổ chức thẻ quốc tế .

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 72 trang tài liệu này.

Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ là ngân hàng được NHTT thẻ uỷ quyền thực hiện một số dịch vụ chấp nhận thanh toán thẻ thông qua hợp đồng ngân hàng đại lý.

NHTT có trách nhiệm:

 Trong phạm vi 1 ngày làm việc kể từ khi nhận biên lai thanh toán, phải trả tiền vào tài khoản của CSCNT. Khi việc thanh toán thẻ đúng quy định thì phải làm thủ tục thanh toán ngay với NHPH.

 Có trách nhiệm cung cấp các máy móc thiết bị, các hoá đơn thanh toán và các bảng kê hoá đơn; các tài liệu hướng dẫn cách tiếp cận thẻ, kiểm tra thẻ, các thông báo mới của NHPH về thay đổi hạn mức thanh toán...vv cho CSCNT.

2.1.4.5 Đơn vị chấp nhận thẻ

Là các tổ chức hay cá nhân cung ứng hàng hoá dịch vụ chấp nhận thẻ làm phương tiện thanh toán. Sau khi ký hợp đồng, CSCNT phải tuân theo các quy định về thanh toán thẻ của NHTT. CSCNT có trách nhiệm:

 Chỉ tiếp nhận thanh toán các thẻ đúng mẫu do NHTT và NHPH hay Hiệp hội thẻ quy định.

 Chỉ chấp nhận thanh toán thẻ sau khi đã kiểm tra đúng quy định về kỹ thuật an toàn của NHTT và NHPH.

 Sau khi giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo yêu cầu của chủ thẻ, trong phạm vi số ngày làm việc quy định phải nộp biên lai thanh toán vào NHTT hoặc ngân hàng đại lý để đòi tiền. Để quá hạn, nếu gặp rủi ro trên không chịu trách nhiệm.

 Thường xuyên trưng bày các biểu tượng của NHTT hoặc tổ chức thẻ

quốc tế.

2.1.4.6 Người chịu trách nhiệm thanh toán

Áp dụng đối với việc phát hành và thanh toán thẻ tín dụng. Đây có thể là chủ thẻ chính (nếu là thẻ cá nhân) hoặc tổ chức, công ty xin cấp thẻ (nếu là thẻ do công ty uỷ quyền cho cá nhân sử dụng). Người chịu trách nhiệm thanh toán có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ các khoản chi tiêu phát sinh từ việc sử dụng thẻ của chủ thẻ.

2.1.4.7 Trung tâm thẻ

Là phòng quản lý thẻ trung ương - đại diện của các ngân hàng trong quan hệ đối ngoại trực tiếp về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ với các tổ chức thẻ quốc tế và các ngân hàng khác - chịu trách nhiệm điều hành hoạt động phát hành, cấp phép, tra soát, thanh toán thẻ và quản lý rủi ro; đồng thời là trung tâm phát hành và thanh toán thẻ giữa các chi nhánh trong hệ thống của ngân hàng.

2.2 Dịch vụ thẻ

2.2.1 Khái niệm dịch vụ

Dịch vụ là một khái niệm phổ biến, nên có nhiều định nghĩa khác nhau

về dịch vụ:

Theo Zeithaml & Britner (2000), dịch vụ là những hành vi, quá trình,

cách thức thực hiện một công việc nào đó nhằm tạo giá trị sử dụng cho khách hàng làm thỏa mãn nhu cầu và mong đợi của khách hàng

Theo Kotler & Armstrong (2004), dịch vụ là những hoạt động hay lợi ích mà doanh nghiệp có thể cống hiến cho khách hàng nhằm thiết lập, củng cố và mở rộng những quan hệ và hợp tác lâu dài với khách hàng

2.2.2 Đặc diểm dịch vụ

Dịch vụ là một sản phẩm đặc biệt, có những đặc tính riêng mà nhờ đó ta có thể dễ dàng phân biệt với những loại hàng hóa hữu hình khác như tính vô hình, tính không đồng nhất, tính không thể tách rời và tính không thể cất trữ.

 Tính vô hình:

Tính vô hình của dịch vụ là tính chất không thể sờ mó hay nắm bắt được, không có hình dạng cụ thể như một sản phẩm hữu hình, Hàng hoá có hình dáng, kích thước, màu sắc và thậm chí cả mùi vị. Khách hàng có thể tự xem xét, đánh giá xem nó có phù hợp với nhu cầu của mình không. Ngược lại, dịch vụ mang tính vô hình, làm cho các giác quan của khách hàng không nhận biết được trước khi

mua dịch vụ. Đây chính là một khó khăn lớn khi bán một dịch vụ so với khi bán một hàng hoá hữu hình, vì khách hàng khó thử dịch vụ trước khi mua, khó cảm nhận được chất lượng, khó lựa chọn dịch vụ, dịch vụ khó quảng cáo. Do vậy, dịch vụ khó bán hơn hàng hoá.

Ảnh hưởng của tính vô hình đến khách hàng:

• Khách hàng khó hình dung ra dịch vụ

• Khách hàng khó thử trước khi mua

• Khách hàng khó đánh giá chất lượng

• Có thể thông qua thương hiệu, giá cả để đánh giá chất lượng dịch vụ

• Tìm kiếm tư vấn của người quen, người bán hàng

 Tính không đồng nhất:

Dịch vụ không thể được cung cấp hàng loạt, tập trung như sản xuất hàng hoá. Đặc điểm này còn gọi là tính khác biệt của dịch vụ. Theo đó, việc thực hiện dịch vụ thường khác nhau tùy thuộc vào cách thức phục vụ, nhà cung cấp dịch vụ, người phục vụ, thời gian thực hiện, lĩnh vực phục vụ, đối tượng phục vụ và địa điểm phục vụ. Về căn bản, tính biến thiên trong dịch vụ cũng dễ xảy ra và xảy ra thường xuyên hơn so với sự không phù hợp của các sản phẩm hữu hình, bởi vì dịch vụ có mức độ tương tác con người rất cao. Đặc điểm này làm cho việc chuẩn hóa dịch vụ trở nên khó thực hiện hơn.

Để khắc phục nhược điểm này, doanh nghiệp có thể thực hiện cơ giới hoá, tự động hoá trong khâu cung cấp dịch vụ, đồng thời có chính sách quản lý nhân sự đặc thù đối với các nhân viên cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, việc tiếp xúc với nhân viên cung cấp dịch vụ lịch sự, niềm nở cũng là một yếu tố hấp dẫn khách hàng. Mặt khác, không phải bất kỳ dịch vụ nào cũng có thể tự động hoá quá trình cung cấp được.

 Tính không thể tách rời:

Tính không thể tách rời của dịch vụ thể hiện ở chỗ khó phân chia dịch vụ thành hai giai đoạn là giai đoạn sản xuất và giai đoạn sử dụng. Dịch vụ thường được tạo ra và sử dụng đồng thời. Điều này không đúng với hàng hóa vật chất được sản xuất ra nhập kho, phân phối thông qua nhiều nấc trung gian mua bán, rồi sau đó mới được tiêu dùng. Đối với sản phẩm hàng hóa, khách hàng chỉ sử dụng sản phẩm ở giai đoạn cuối cùng, còn đối với dịch vụ khách hàng đồng hành trong suốt hoặc một phần của quá trình tạo ra dịch vụ.

Tác động của tính không thể tách rời đến khách hàng:

• Khách hàng phải có mặt để hưởng thụ dịch vụ

• Khách hàng phải đến địa điểm cung cấp dịch vụ

• Chịu ảnh hưởng bởi quá trình cung cấp dịch vụ, thái độ của người cung cấp DV, và môi trường nơi xảy ra quá trình cung cấp.

Tác động của tính không thể tách rời đến doanh nghiệp:

• Khó đạt được tính kinh tế theo quy mô

• Khó đạt được sự đồng đều về chất lượng (phụ thuộc vào nhân viên cung cấp dịch vụ)

• Khó cân bằng giữa cung và cầu dịch vụ

• Mối quan hệ giữa khách hàng và người cung cấp dịch vụ có ảnh hưởng lớn đến sự cảm nhận của khách hàng về chất lượng dịch vụ.

 Tính không lưu giữ được:

Dịch vụ không thể cất giữ, lưu kho rồi đem bán như hàng hóa khác, quá trình cung cấp và tiêu thụ xảy ra đồng thời chính tại thời điểm sử dụng dịch vụ.

 Tính không chuyển quyền sở hữu được

Khi mua một hàng hoá, khách hàng được chuyển quyền sở hữu và trở thành chủ sở hữu hàng hoá mình đã mua. Khi mua dịch vụ thì khách hàng chỉ được quyền sử dụng dịch vụ, được hưởng lợi ích mà dịch vụ mang lại trong một thời gian nhất định mà thôi.

Đặc tính này ảnh hưởng đến chính sách phân phối trong Marketing dịch vụ, trong đó người bán buôn, bán lẻ cũng không được chuyển quyền sở hữu. Họ đơn thuần chỉ là người tham gia vào quá trình cung cấp dịch vụ. Và tất nhiên, họ có ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ. Như vậy, vấn đề huấn luyện, hỗ trợ, tư vấn, kiểm tra đánh giá các trung gian phân phối là yếu tố cần thiết để đảm bảo chất lượng dịch vụ.

2.2.3 Khái niệm về dịch vụ thẻ:

Nếu các doanh nghiệp sản xuất sáng tạo ra hàng hóa hữu hình (lúa, gạo, máy móc thiết bị, v.v…) thì các NHTM sản xuất ra các hàng hóa vô hình, hay đúng hơn là các dịch vụ. Sản phẩm của ngân hàng có đặc tính phi vật chất, luôn bị động, phụ thuộc khách hàng. Điều khó khăn là phải xử lý các ủy nhiệm theo yêu cầu mong muốn của khách hàng, chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng thể hiện ở khả năng hoàn thành ủy nhiệm của khách hàng với thời gian ngắn nhất, chính xác, an toàn và tiện lợi, đặc biệt là đối với các dịch vụ thanh toán tiền tệ.

Hiện nay chưa có một khái niệm cụ thể và chính xác nào cho dịch vụ thẻ, tuy nhiên đây cũng là một loại hình dịch vụ thuộc nhóm các dịch vụ bán lẻ hay còn gọi là dịch vụ cá nhân của một ngân hàng hiện đại, gắn chặt và phát triển cùng với dịch vụ ngân hàng điện tử (e-banking) và thương mại điện tử (e-commerce).

Có thể hiểu dịch vụ thẻ ghi nợ là bao gồm tổng thể các sản phẩm của ngân hàng được cung ứng cho khách hàng khi sử dụng thẻ như: thanh toán hàng hóa dịch vụ, rút tiền, chuyển tiền, truy vấn số dư,… Dịch vụ thẻ là mục tiêu cuối cùng mà khách hàng cần ở một chiếc thẻ, dịch vụ thẻ cũng mang đầy đủ những đặc trưng chung của dịch vụ.

 Các hoạt động chính của dịch vụ thẻ ngân hàng:

- Nạp tiền: chủ thẻ có thể nạp tiền vào tài khoản trực tiếp tại Ngân hàng, chuyển từ Ngân hàng khác sang.

- Rút tiền: tại Ngân hàng, qua hệ thống ATM, tại các điểm ứng tiền của Ngân hàng hoặc các ngân hàng liên minh

- Chuyển khoản: qua các tài khoản bất kỳ ngân hàng nào, thanh toán các giao dịch kinh doanh, các hóa dơn dịch vụ (điện, nước, điện thoại...)

- Nhận chuyển khoản: từ các Ngân hàng trong nước, ngoài nước, nhận lương, thưởng..

- Thanh toán hàng hóa – dịch vụ: tại các cửa hàng, trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng – khách sạn...

- Thanh toán trực tiếp hoặc tự động các hóa đơn tiền điện tiền nước, nạp tiền điện thoại, mua các loại thẻ trả trước...

 Phân loại dịch vụ thẻ

Phân loại theo công cụ hỗ trợ: dịch vụ thẻ tại ATM, POS, internet. Khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ thẻ khác nhau tại các công cụ hỗ trợ khác nhau.

Phân loại theo phạm vi lãnh thổ: dịch vụ thẻ được thực hiện trong nước và nước ngoài. Chỉ có thẻ quốc tế mới có thể sử dụng được các dịch vụ thẻ tại nước ngoài.

Dịch vụ tích hợp đặc trưng: là dịch vụ ưu đãi của ngân hàng liên kết với một tổ chức nhất định dành cho khách hàng khi sử dụng kết hợp hai dịch vụ của ngân hàng và tổ chức đó. Đây là dịch vụ ngày càng trở nên phổ biến, nó có sức hấp dẫn hơn đối với khách hàng bởi sức hấp dẫn phụ trội mà nhà cung cấp thứ hai mang lại.

2.3 Phân loại thẻ

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ phân loại thẻ

Nguồn Quy trình thẻ ngân hàng TMCP Việt Á 2 4  Lợi ích và rủi ro khi sử dụng 1

Nguồn: Quy trình thẻ ngân hàng TMCP Việt Á

2.4 Lợi ích và rủi ro khi sử dụng dịch vụ thẻ

2.4.1 Lợi ích khi sử dụng dịch vụ thẻ

2.4.1.1 Đối với chủ thẻ:

 Sự linh hoạt, tiện lợi và an toàn:

Khi sử dụng thẻ, chủ thẻ đã được ngân hàng cung cấp một dịch vụ thanh toán có độ bảo mật cao, độ tiện dụng lớn. Những cơ sở thanh toán thẻ ngày càng nhiều, các máy ATM ngày càng trở nên phổ biến, thẻ sẽ là một công cụ thanh toán lý tưởng cho các chủ thẻ.

Khách hàng không phải đối mặt với nhiều rủi ro khi mang theo một lượng tiền mặt lớn. Việc dùng thẻ tín dụng hoặc thẻ thanh toán đảm bảo khả năng chi tiêu đa ngoại tệ, không bị lệ thuộc vào ngoại tệ của nước nào.

Hiện nay với công nghệ tiên tiến, máy ATM không chỉ dùng để rút tiền mà nó trở thành một ngân hàng thu nhỏ với đủ các chức năng và tiện ích: nạp tiền, rút tiền trực tiếp, chuyển khoản đến tất cả các ngân hàng, thanh toán các hóa đơn, dịch vụ, thuế, lệ phí…mua thẻ trả trước điện thoại di động, Internet… Hệ thống ATM được lắp đặt ở hầu hết các Thành Phố, một số khách sạn, nhà hàng, siêu thị, cửa hàng bách hóa lớn, kể cả các Trường Đại học và điều này sẽ giúp cho người sử dụng có thể rút tiền ở nhiều nơi khi cần sử dụng.

Chủ thẻ có thể rút tiền, chuyển tiền… vào bất cứ thời gian nào mà không cần phải đến ngân hàng.

 Được cấp tín dụng:

Đối với thẻ tín dụng, Ngân hàng cấp tín dụng trước cho khách hàng để thanh toán hàng hóa dịch vụ mà không bị tính bất kì một khoản lãi nào trong thời gian quy định, khách hàng đã được ngân hàng giúp mở rộng khả năng thanh toán của mình. Ngoài ra, khi khách hàng có số dư trên tài khoản, nếu khách hàng không sử dụng, số dư này sẽ được hưởng mức lãi suất tiền gửi không kì hạn.

 Tiết kiệm thời gian:

Việc sử dụng thẻ rất đơn giản và nhanh chóng.. Chỉ trong vòng vài phút mệnh lệnh của người sử dụng sẽ được thực hiện. Và họ có thể dễ dàng rút được số tiền mà mình muốn.

Nhờ hình thức trả lương qua thẻ nhiều công nhân, người lao động đã có thói quen gửi tiền vào tài khoản vừa có lãi vừa bảo đảm an toàn.

 Dễ dàng kiểm soát chi tiêu:

Một tiện ích khác là người sử dụng thẻ có thể cho người thân sử dụng tài khoản qua thẻ phụ và có thể giới hạn mức chi tiêu của thẻ phụ để dễ kiểm soát.

2.4.1.2 Đối với Ngân hàng:

Hơn ai hết, ngân hàng chính là người được hưởng lợi từ hoạt động phát hành và thanh toán thẻ. Điều này thể hiện trên các mặt sau:

Tăng nguồn vốn cho Ngân hàng: Trong quá trình phát hành và thanh toán thẻ, các ngân hàng có được kênh huy động vốn với chi phí thấp từ số dư tài khoản của chủ thẻ và các cơ sở chấp nhận thẻ.

Tăng nguồn thu từ phí: chiết khấu thương mại, phí rút tiền mặt, phí đại lý thanh toán, phí thường niên, ...ngân hàng sẽ có được một khoản thu tương đối ổn định.

Mở rộng địa bàn hoạt động: việc đặt các máy ATM hay liên hệ với các

cơ sở chấp nhận thẻ mới rất có ích ở những nơi mà việc mở chi nhánh là tốn kém.

Tham gia chuỗi dịch vụ toàn cầu: Sau lợi nhuận, khả năng cung cấp dịch vụ toàn cầu là lợi ích lớn nhất cho ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, hội nhập với cộng đồng quốc tế.

Thúc đẩy đa dạng, hiện đại hoá dịch vụ ngân hàng: Thẻ ra đời làm phong phú thêm các dịch vụ ngân hàng, ngân hàng có cơ hội phát triển các dịch vụ khác như giao dịch, thanh toán trực tuyến bằng thẻ.

2.4.1.3 Đối với các đơn vị chấp nhận thẻ

Tăng hiệu quả kinh doanh, Giúp CSCNT nhanh thu hồi vốn.

Với việc được cấp tín dụng trước cho khách hàng, ngân hàng đã giúp khách hàng chi tiêu vượt quá khả năng của mình, đây là một sức đẩy đối với sức mua của khách hàng và chính điều này sẽ làm cho lượng tiêu thụ hàng hóa dịch vụ của các cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ tăng cao.

Ngoài ra, đối với một số cơ sở, việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ của ngân hàng cũng là một điều kiện để được hưởng các ưu đãi của ngân hàng về tín dụng, dịch vụ thanh toán...

Giao dịch thẻ được trả tiền ngay vào tài khoản của CSCNT, ít có nguy cơ bị mất cắp hơn là séc hay tiền mặt. Ngoài ra các CSCNT tránh được hiện tượng khách hàng dùng tiền giả.

Khi chấp nhận thẻ, người bán hàng có khả năng giảm thiểu các chi phí về quản lý tiền mặt như bảo quản, kiểm đếm, nộp vào tài khoản ở Ngân hàng...

Rút ngắn thời gian giao dịch với khách hàng

2.4.1.4 Đối với nền kinh tế:

Giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông: Là một phương tiện thanh toán thay thế tiền mặt, séc..., vai trò đầu tiên của thẻ là làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Thực hiện biện pháp " kích cầu" của Nhà nước

Góp phần minh bạch tài chính, hỗ trợ quản lý vĩ mô của nhà nước: Do các giao dịch đều thực hiện qua ngân hàng.

Tăng nhanh khối lượng chu chuyển, thanh toán trong nền kinh tế do hầu hết các giao dịch đều được thực hiện trực tuyến.

Giảm thiểu các rủi ro của việc sử dụng tiền mặt và các tệ nạn xã hội liên quan đến việc sử dụng tiền mặt. Giảm chi phí phát hành in ấn tiền mới,…

2.4.2 Một số rủi ro trong quá trình sử dụng dịch vụ thẻ:

* Thông tin phát hành giả hoặc khách hàng mất khả năng thanh toán:

Do không thẩm định kĩ thông tin của khách hàng, ngân hàng có thể phát hành thẻ cho khách hàng đăng kí với những thông tin giả mạo. Và như vậy, ngân hàng có thể gặp rủi ro khi khách hàng không có khả năng thanh toán.

* Thẻ giả

Là loại rủi ro lớn nhất và nguy hiểm nhất hiện nay mà các tổ chức thẻ rất quan tâm. Đây là trường hợp do tổ chức, cá nhân làm giả căn cứ vào các thông tin co được từ các giao dịch thẻ hoặc từ thẻ đã bị mất cắp, thất lạc.

* Thẻ bị mất cắp, thất lạc

Trong lưu hành thẻ, trường hợp này rất dễ xảy ra đối với khách hàng và ngân hàng. Trong trường hợp thẻ bị mất, chủ thẻ không thông báo kịp cho ngân hàng dẫn dến thẻ bị người khác lợi dụng gây ra các giao dịch giả mạo làm tổn thất cho khách hàng.

* Chủ thẻ không nhận được thẻ do ngân hàng gửi

Ngân hàng gửi thẻ cho chủ thẻ qua đường bưu điện nhưng trên đường vận chuyển thẻ bị đánh cắp và bị sử dụng mà chủ thẻ không hay biết gì về việc thẻ đã được gửi cho mình.

* Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng

Rủi ro này phát sinh tại thời điểm ngân hàng gia hạn hoặc phát hành lại thẻ. Ngân hàng phát hành nhận được thông báo về thay đổi địa chỉ khách hàng và yêu cầu gửi thẻ về địa chỉ mới. Do không kiểm tra tính xác thực của thông tin nên ngân hàng đã gửi thẻ đến địa chỉ mới theo yêu cầu của khách hàng nhưng đây không phải là yêu cầu của chủ thẻ thật.

* Rủi ro do sử dụng thẻ đã báo mất

Trong một số trường hợp chủ thẻ thông báo cho NHPH là thẻ đã bị thất lạc, nhưng sau đó lại sử dụng trong thời gian thẻ chưa kịp đưa vào danh sách thẻ cấm lưu hành , chủ thẻ sử dụng bằng cách ký tên trên hóa đơn hơi khác chữ ký trên thẻ. Cũng có trường hợp chủ thẻ thay chữ ký bằng một băng chữ ký trắng và ký lại bằng một chữ ký hoàn toàn khác so với chữ ký cũ, khi thanh toán chủ thẻ sẽ ký bằng chữ ký mới. Như vậy chủ thẻ có thể thoái thác được trách nhiệm thanh toán các thương vụ

* Rủi ro sử dụng vượt hạn mức

Khách hàng cố tình sử dụng thẻ ở các CSCNT khác nhau với mức thanh toán thấp hơn hạn mức thanh toán nhưng tổng hạn mức lại cao hơn hạn mức thanh toán cho phép. Điều này chỉ được phát hiện khi NHTT kiểm tra các hoá đơn do CSCNT gửi đến và ngân hàng có thể chịu rủi ro khi chủ thẻ mất khả năng thanh toán. Chủ thẻ cũng có thể lợi dụng tính chất thanh toán toàn cầu của thẻ để thông đồng với người khác, giao thẻ cho người đó sử dụng ở các nước khác nhau bằng chữ ký giả mạo của chủ thẻ và từ chối thanh toán khi bị NHPH đòi tiền.

* Tạo băng từ giả

Đây là loại hình giả mạo thẻ sử dụng công nghệ cao, trên cơ sở thông tin của khách hàng trên băng từ của cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ các tổ chức tội phạm sử dụng các phần mềm mã hóa và tạo ra các băng từ giả trên thẻ và thực hiện các giao dịch.

* Nhân viên ĐVCNT in nhiều hóa đơn thanh toán một thẻ

Lợi dụng qua hoá đơn thanh toán thẻ: Nguyên nhân của rủi ro này là do nhân viên CSCNT đã cố tình in ra nhiều bộ hoá đơn thanh toán của một thẻ, nhưng chỉ giao một bộ hoá đơn cho chủ thẻ ký để hoàn thành giao dịch. Sau đó nhân viên của CSCNT giả mạo chữ ký của chủ thẻ để nộp hoá đơn thanh toán cho NHTT.

* Rủi ro trong khâu công nghệ ngân hàng, công nghệ thông tin

Trong điều kiện hiện nay khi khối lượng giao dịch và số lượng thẻ đã lên tới con số khổng lồ thì quy trình xử lý đòi hỏi sự hỗ trợ và lệ thuộc rất lớn vào trang thiết bị đặc biệt là thiết bị xử lý tự động. Do vậy trình độ khoa học kỹ thuật, máy móc, trang thiết bị, mạng viễn thông .. tác động rất lớn đến rủi ro

* Hệ thống ATM thường xuyên bị quá tải, giao dịch thẻ bị lỗi trong quá trình xử lý.

Trong những năm gần đây, mặc dù thị trường thẻ ATM phát triển nhanh chóng nhưng số lượng thẻ ATM phát hành còn rất thấp so với tiềm năng thị trường.Trên lý thuyết máy ATM hoạt động 24/24 giờ nhưng hiện nay chưa được thực hiện. Thêm vào đó hệ thống các điểm chấp nhận thẻ tương đối ít điều này đã làm gây tâm lý ngại sử dụng thẻ ở khách hàng.

2.5 Quy trình nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ

2.5.1 Quy trình phát hành thẻ:

 Cơ sở pháp lý

Việc phát hành và thanh toán thẻ phải dựa trên cơ sở pháp luật của nước mà thẻ được phát hành, cụ thể là các quy chế về phát hành và thanh toán thẻ do Ngân hàng Nhà nước ban hành. Ngoài ra, nếu ngân hàng triển khai thẻ quốc tế thì việc phát hành và thanh toán thẻ phải được sự đồng ý của tổ chức thẻ quốc tế thông qua hợp đồng ký kết giữa ngân hàng với các tổ chức thẻ quốc tế, đồng thời tuân thủ các luật lệ và quy định hiện hành của các tổ chức thẻ quốc tế.

Dựa trên các cơ sở này, mỗi ngân hàng phát hành sẽ có những quy chế riêng về phát hành và thanh toán thẻ do Tổng Giám đốc ngân hàng quy định.

 Quy trình phát hành thẻ

- Hoạt động thông tin tiếp thị đưa sản phẩm thẻ vào thị trường

- Thiết kế và tổ chức mua thẻ trắng

- Phát hành thẻ: đây được coi là một trong những thao tác nghiệp vụ căn bản nhất để tạo ra được một thành phẩm thẻ của ngân hàng:

Sơ đồ 2.2: Quy trình phát hành thẻ

(2)

(3)

Tiếp nhận hồ sơ

Thẩm định hồ sơ

Chủ thẻ

(1)

(6)

Giao nhận thẻ

Dập thẻ, in Pin

Phân loại khách hàng

(5) (4)

Nguồn: Quy trình phát hành thẻ tại ngân hàng TMCP Việt Á

(1) Khách hàng đến ngân hàng đề nghị được phát hành thẻ

(2) Tiếp nhận hồ sơ phát hành thẻ: Khách hàng đến ngân hàng để hoàn thành một số thủ tục cần thiết và xuất trình một số giấy tờ khác có liên quan.

(3) Thẩm định hồ sơ: Căn cứ vào hồ sơ khách hàng, bộ phận thẩm định tiến hành thẩm tra hồ sơ và ra quyết định chấp thuận phát hành thẻ hoặc từ chối.

(4) Phân loại khách hàng: Nếu việc xem xét hồ sơ phát hành thẻ hoàn toàn hợp lệ thì ngân hàng có thể tiến hành phân loại khách hàng. Đối với thẻ ghi nợ thì đơn giản hơn vì khách hàng đã có tài khoản ở ngân hàng. Còn với thẻ tín dụng thì ngân hàng phải tiến hành xếp loại khách hàng để có một chính sách tín dụng phù hợp.

(5) In dập nổi thẻ và PIN, đóng gói thẻ: Bằng kỹ thuật riêng của từng NHPH, in dập nổi thông số cần thiết về chủ thẻ lên thẻ như số thẻ, thời gian hiệu lực, mã số ngân hàng... Đồng thời mã hoá và định dạng mã số cá nhân (PIN) cho chủ thẻ. Đóng gói thẻ và PIN vào từng phong bì riêng để gửi cho ngân hàng chi nhánh hoặc trực tiếp đến chủ thẻ.

(6) Giao thẻ cho khách hàng: Trước khi giao thẻ, ngân hàng phải kích hoạt thẻ cho khách hàng. Khi ngân hàng giao thẻ và số PIN thì yêu cầu chủ thẻ phải giữ bí mật về số PIN của mình. Mọi trường hợp mất tiền do để lộ số PIN, chủ thẻ phải chịu trách nhiệm.

Sau khi giao thẻ cho khách hàng coi như nhiệm vụ phát hành thẻ kết thúc. Thời gian kể từ khi khách hàng đề nghị phát hành thẻ đến khi nhận được thẻ thường không quá 6 ngày.

2.5.2 Quy trình thanh toán thẻ:

Khi khách hàng xuất trình thẻ để mua hàng hoá và dịch vụ, các CSCNT phải xem số tiền thanh toán có vượt hạn mức quy định của NHTT hay không. Trường hợp số tiền thanh toán lớn hơn hạn mức thì CSCNT phải xin cấp phép. Xét các loại thẻ quốc tế hiện nay thì thẻ Amex có hạn mức lớn nhất, sau đó là MasterCard, JCB và cuối cùng là Visa. Thông thường CSCNT khi chấp nhận thanh toán thẻ phải thực hiện các công việc sau:

Bước 1: Kiểm tra tính thật giả của thẻ, số thẻ; xác thực chủ thẻ; hạn mức giao dịch có được thanh toán hay phải xin cấp phép

Bước 2: Lập 04 liên hoá đơn thanh toán

Bước 3: Trả lại thẻ cho chủ thẻ cùng một liên hoá đơn thanh toán, CSCNT thanh toán giữ lại một liên hoá đơn để lưu làm chứng từ khi có tranh chấp (thường lưu trong 1 năm), còn 2 liên hoá đơn nộp lại cho NHTT

Xem tất cả 72 trang.

Ngày đăng: 09/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí