Xây Dựng Chiến Lược Quốc Gia Về Tài Chính Nông Thôn


xã hội nông thôn. TCTCNT có thể tự thu thập thông tin bằng việc sử dụng các nguồn chính thức đáng tin cậy, theo những tiêu chuẩn và chỉ số thông tin nhất định; hoặc thuê ngoài nếu có điều kiện.

Công nghệ thông tin cần được ứng dụng ở mức tối đa trong việc xây dựng hệ thống thu thập, xử lý và phân tích thông tin cho cảnh báo và xử lý rủi ro. Các mô hình hệ thống thông tin quản lý MIS hiện đại phù hợp với đặc điểm của TCTCNT cần được ứng dụng để quản lý thông tin. Sử dụng các mô hình định lượng rủi ro để nhận diện sớm rủi ro trước khi xảy ra.

3.2.8.3. Chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ

Để thực hiện tăng cường quản lý rủi ro trước khi xảy ra, các TCTCNT cần thực hiện rà soát lại toàn bộ các quy trình nghiệp vụ, tực hiện chuẩn hóa quy trình theo các bước cụ thể, những lưu ý nghiệp vụ đối với từng bước, vai trò và trách nhiệm của từng cá nhân, phòng ban trong từng bước và trong cả quy trình. Tránh tình trạng xây dựng chính sách, quy trình nhưng không áp dụng trong thực tế được như đã xảy ra với sổ tay tín dụng của AGRIBANK.

3.2.8.3. Xử lý triệt để các tổn thất

Đối với cơ chế xử lý nợ rủi ro cũng cần được xem xét sửa đổi cho phù hợp với thực tế theo hướng có chính sách hỗ trợ người vay sau rủi ro. Đồng thời, tăng cường trách nhiệm cho các chi nhánh cấp dưới trong việc thực hiện xử lý nợ rủi ro theo hướng phân quyền, những rủi ro bất khả kháng thì cả hệ thống TCTCNT sẽ cùng “gánh vác”, còn những rủi ro do bản thân tổ chức có thể khắc phục được thì phải thực hiện ngay từ cấp dưới. Các TCTCNT còn có thể sử dụng các công cụ như bảo hiểm rủi ro tín dụng, trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng các công cụ phái sinh nếu có thể.


3.3. KIẾN NGHỊ

3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.

3.3.1.1. Xây dựng chiến lược quốc gia về tài chính nông thôn


Phát triển các tổ chức tài chính nông thôn Việt Nam - 22

Để ngành tài chính nông thôn có thể phát triển một cách lành mạnh và bền vững, những người làm chính sách và các nhà thực tế cần cùng nhay xây dựng một chiến lược quốc gia toàn diện. NHNN cần thành lập một ban soạn thảo gồm những bên liên quan để chuẩn bị cho chiến lược này. NHNN là đơn vị chịu trách nhiệm chính, nhưng sự tham gia của Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư, các cơ quan có liên quan cũng như chính các TCTCNT.

Những vấn đề cần được đề cập đến trong chiến lược phát triển hoạt

động của các TCTCNT là:


- Xem xét và phân tích toàn bộ hệ thống tài chính nông thôn như là một phần quan trọng của cải cách tổng thể hệ thống tài chính quốc gia

- Phát triển một khuôn khổ pháp lý phù hợp và các tổ chức hoạt động bền vững theo những thông lệ tốt và dựa vào đội ngũ quản lý chuyên nghiệp.

- Khuyến khích một thị trường cạnh tranh và minh bạch cho tài chính nông thôn. Sự cạnh tranh trong khu vực tài chính nông thôn sẽ giúp nâng cao chất lượng dịch vụ và tạo tiền đề phát triển khu vực này. Xóa bỏ hoặc giảm bớt những yếu tố làm bóp méo thị trường như chính sách trợ giá, bao cấp. Đây là điều thiết yếu cho việc phát triển đúng đắn của ngành tài chính nói chung, tài chính nông thôn nói riêng. Cho phép các TCTCNT kết hợp cung cấp các dịch vụ tài chính và hỗ trợ xã hội gián tiếp, tùy vào khả năng của tổ chức và nhu cầu khách hàng.

- Xem xét lại chính sách tín dụng giá rẻ. Các khoản tín dụng nhỏ là phương tiện nâng cao được nỗ lực phát triển xã hội nhằm xóa nghèo, nhưng tập trung vào tín dụng giá rẻ để phát triển xã hội có thể dẫn đến sự hiểu lầm


nghiêm trọng về vai trò của hệ thống tài chính nông thôn. Sự kết hợp các yếu tố thị trường và phi thị trường khiến cho kỳ vọng về dịch vụ tài chính không tương thích với các thông lệ quốc tế tốt được chấp nhận trong tài chính nông thôn, đặc biệt là tầm quan trọng của sự bền vững, và dẫn đến việc các nguyên tắc quản lý tài chính đúng đắn thường bị vi phạm.

- Khuyến khích sự tham gia của các TCTC khác vào thị trường tài chính nông thôn, tạo thêm cung để đáp ứng khoảng trống cung cho cầu dịch vụ tài chính– các hộ không nghèo nhưng gần ngưỡng nghèo, và các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ trong nông thôn.

- Phát triển các tổ chức tài chính nông thôn đa dạng về sở hữu, về loại hình tổ chức. Khuyến khích các NHTM cũng tham gia vào thị trường nông thôn. Mặc dù thời gian qua, các NHTM cổ phần nông thôn đã chuyển thành mô hình NHTM đô thị do nhiều nguyên nhân, nên tiếp tục khuyến khích việc cơ cấu lại các tổ chức tài chính hiện có, hoặc thành lập các ngân hàng nông thôn, ngân hàng tiết kiệm… tạo điều kiện phát triển khu vực tài chính nông thôn. Cơ chế giám sát đối với công cuộc cơ cấu lại hoặc thành lập mới các tổ chức tài chính nông thôn chặt chẽ nhưng phải bảo đảm tăng tính cạnh tranh cho khu vực này.

- Tạo sân chơi bình đẳng cho các TCTCNT phát triển hoạt động. Cho phép các QTDND được tham gia đấu thầu cung cấp dịch vụ ủy thác cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình tạo việc làm, chương trình hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ…..Xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc tương đương nhau giữa các TCTCNT và có cơ chế thưởng, phạt nghiêm minh với các tổ chức này nếu có vi phạm.

- Xác định rõ vai trò của các tổ chức quần chúng (TCQC) trong hệ thống tài chính nông thôn. Hiện nay, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của các tổ chức quần chúng, đặc biệt là Hội phụ nữ (HPN) trong việc điều phối và tham gia


vào quá trình cung ứng dịch vụ tài chính nông thôn, đặc biệt cho NHCSXH và các TCTCNT NGOs. HPN cũng là cầu nối làm giảm bớt chi phí giao dịch và các yêu cầu bảo đảm cho các hội viên khi tiếp cận đến AGRIBANK.

Có hai lựa chọn cho vai trò của các tổ chức quần chúng nói chung, của HPN nói riêng như sau

+ Lựa chọn 1:Các TCQC tự chuyển đổi từng phần hoặc hoàn toàn sang một nhà cung cấp trên thị trường với vốn độc lập và tự chủ. Tuy nhiên, cách thức này có thể làm giảm vai trò quan trọng hiện nay của các tổ chức này là tạo điều kiện thuận lợi và tăng cơ hội tiếp cận các dịch vụ tài chính và phi tài chính cho khách hàng nông thôn, đặc biệt là người nghèo, với tư cách là tổ chức xác định mục đích vay vốn và giúp tổ chức các nhóm tín dụng tiết kiệm. Hơn nữa, các TCQC hiện nay cũng không chuẩn bị để đón nhận và cũng không được cơ cấu một cách thích hợp để thực hiện vai trò của một nhà cung cấp dịch vụ tài chính nông thôn chuyên nghiệp, tự chủ về tài chính

+ Lựa chọn 2:Tại cấp trung ương, các TCQC đóng vai trò là người điều hành hợp pháp của các TCTCNT bán chính thức, và là pháp nhân sở hữu tương lai của một vài TCTCNT để tạo điều kiện phát triển thuận lợi hơn cho ngành tài chính nông thôn chuyên nghiệp hơn. Đối với các TCTCNT bán chính thức quy mô nhỏ, cần phải tiếp tục các hoạt động hỗ trợ tổ chức nhóm tín dụng và giám sát thanh toán…. tại cấp làng xã. Với các tổ chức không chuyển đổi, phải làm việc với MFWG và sử dụng các báo cáo tiêu chuẩn phù hợp với các thông lệ tốt được quốc tế công nhận. Các TCQC trở thành nhà điều phối chuyên nghiệp để phối hợp các sáng kiến chung, giải quyết các vấn đề và các mối quan ngại trong khu vực tài chính nông thôn.

- Giải pháp phát triển các TCTCNT quy mô nhỏ: Khẩn trương hoàn thành việc soạn thảo thông tư hướng dẫn thực hiện nghị định 28 và nghị định


165, tránh tình trạng chậm trễ như điều đã xảy ra đối với nghị định 28. Sử dụng các kinh nghiệm quốc tế, thuê chuyên gia tư vấn trong nước và quốc tế trong lĩnh vực tài chính vi mô để trợ giúp NHNN đưa ra hướng dẫn phù hợp, tạo khung pháp lý linh hoạt nhưng trong tầm kiểm soát an toàn.

3.3.1.2. Tăng cường vai trò quản lý hoạt động trên thị trường tài chính nông thôn

- Tăng cường khả năng xây dựng một cơ sở dữ liệu thông tin thống nhất và cập nhật về tất cả các TCTCNT hiện đang hoạt động trên thị trường, bao gồm việc đánh giá chất lượng, phạm vi tiếp cận, các nguồn vốn, phân đoạn thị trường nhằm quản lý rủi ro tốt hơn.

- NHNN cần làm điều phối viên trong việc hợp tác và chia sẻ thông tin giữa các TCTCNT, phát triển hệ thống tham khảo tín dụng mà trước mắt là tăng cường năng lực của Trung tâm thông tin tín dụng CIC để xác định rõ các trường hợp cho vay trùng lặp hay việc các khách hàng của một TCTCNT nợ quá nhiều. Các rủi ro mang tính hệ thống tiềm tàng nhưng không hề được các TCTCNT đánh giá cần phải được cảnh báo gấp để tránh đổ vỡ hệ thống.

- Khuyến khích các TCTCNT tối đa hóa việc sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài chính, quản lý khách hàng, sử dụng một/một số chương trình thống nhất và có tính chia sẻ thông tin mạnh với mã nguồn mở

- Điều phối việc phân bổ nguồn lực trợ cấp hay vốn vay dành cho đào tạo đội ngũ và đào tạo các nhà quản lý trong các TCTCNT chính thức và đang chuyển đổi thông qua Hiệp hội ngân hàng, hiệp hội QTDND, Trung tâm đào tạo ngân hàng và các cơ sở đào tạo về ngân hàng – tài chính có tiếng tăm trong nước và khu vực.


- Kết nối giữa khu vực chính thức và bán chính thức, tiếp xúc và tạo điều kiện cho các đơn vị này phối hợp với nhau trên thị trường tài chính nông thôn, từ đó tối đa hóa sức mạnh của từng bên.

- Tăng cường quản lý bằng các chính sách gián tiếp thay cho trực tiếp, ví dụ dỡ bỏ quy định hành chính về địa bàn hoạt động của QTDND, quy định về các hình thức tín dụng ưu đãi trực tiếp đối với AGRIBANK và NHCSXH.

- Ban hành các chính sách tài chính theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế, có các chế tài cụ thể để giám sát việc ứng dụng các tiêu chuẩn này của các TCTCNT.

3.3.2. Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan liên quan


3.3.2.1. Hoàn thiện khung pháp lý


Khuôn khổ các chính sách tài chính nói chung hiện nay đang được điều chỉnh theo các yêu cầu của WTO và các chuẩn mực quốc tế. Chính phủ Việt Nam đang được các nhà tài trợ hỗ trợ, và các nhà tài trợ có liên quan tới tài chính hiện đang cộng tác rất chặt chẽ với NHNN. GTZ đang thực hiện trợ giúp NHNN rà soát lại Luật NHNN và luật các TCTD, còn IMF đang hỗ trợ việc soạn thảo các quyết định khác nhau về việc tăng cường khuôn khổ giám sát pháp lý ngân hàng và hoạt động của các ngân hàng hiện nay. Ngoài ra, còn nhiều hỗ trợ khác tập trung vào việc tăng cường giám sát và điều chỉnh hệ thống kế toán kiểm toán ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, khi Nghị định 28 và Nghị định 165 về tổ chức và hoạt động của TCTC quy mô nhỏ ở Việt Nam có hiệu lực, sẽ có thể nảy sinh một số vấn đề về các trách nhiệm giám sát của NHNN đối với các TCTC quy mô nhỏ.

Để đảm bảo tính hiệu lực chung của môi trường pháp lý, NHNN cần tăng cường việc kiểm tra giám sát để thúc đẩy sự phát triển hơn nữa khu vực tài chính nông thôn, và đảm bảo rằng những hạn chế sẽ được khắc phục. Các luật lệ có liên quan trực tiếp và gián tiếp tới sự phát triển các TCTCNT có thể bao gồm:


- Luật về ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng, ví dụ có thể hợp nhất nhiều nghị định liên quan đến việc cung cấp dịch vụ tài chính trong một Luật sửa đổi về các TCTD

- Luật hợp tác xã và các quy định liên quan đến hệ thống QTDND và các hợp tác xã tín dụng.

- Luật về các hiệp hội, và có thể là cả một luật mới về các tổ chức phi chính phủ

- Luật về các giao dịch bảo đảm, Luật về quyền sở hữu (đất đai, nhà cửa, ….)


- Luật doanh nghiệp, trong đó có liên quan đến các TCTCNT NGOs chuyển đổi thành các công ty TNHH có bảo lãnh

- Luật kinh doanh có liên quan đến khu vực tài chính, đặc biệt là luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Các luật này không chỉ bảo vệ sự tồn tại và phát triển của các TCTCNT mà còn bảo vệ lợi ích của khách hàng – phần đông là dân chúng có thu nhập trung bình và thấp, cũng như bảo vệ uy tín của nhà nước trước cộng đồng xã hội.

3.3.2.2. Đảm bảo môi trường kinh tế - chính trị - xã hội nông thôn ổn định


Để đảm bảo môi trường kinh tế - chính trị - xã hội nông thôn ổn định, tạo điều kiện cho các TCTCNT phát triển lành mạnh bền vững, Chính phủ cần theo đuổi chính sách làm giảm bớt sự biến động kinh tế vĩ mô như sử dụng chính sách tài khóa, tiền tệ thận trọng, ổn định giá cả, duy trì chính sách ngoại hối ổn định và thích hợp. Sự can thiệp của nhà nước đối với thị trường chỉ dừng lại ở mức hướng dẫn và hỗ trợ thị trường hoạt động theo đúng hướng. Đối với những tác động xấu có thể xảy ra khi các cam kết WTO có hiệu lực, Chính phủ cần có các chương trình hỗ trợ bảo vệ người dân nông thôn để giảm thiểu tình trạng nghèo đói, phân biệt đối xử. Giải quyết vấn đề


bất bình đẳng và khoảng cách giầu – nghèo ngày càng tăng giữa khu vực nông thôn và thành thị thông qua hệ thống an sinh xã hội.

3.3.2.4. Đảm bảo sự hỗ trợ đắc lực của chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội

Như kinh nghiệm quốc tế, các TCTCNT chỉ có thể thành công lâu dài nếu biết kết hợp nhuần nhuyễn khung pháp lý chính thức và phi chính thức. Mối quan hệ làng xóm, các thành viên trong các hiệp hội, tổ chức chính trị xã hội tạo thành sức mạnh cộng đồng, giúp khách hàng của TCTCNT phát triển kinh tế, nâng cao đời sống. Sức mạnh này cũng trở thành sức ép để khách hàng thực hiện các điều khoản đối với TCTCNT, giảm chi phí giao dịch cho cả tổ chức và khách hàng. Sự hỗ trợ đắc lực của chính quyền địa phương và các cơ quan, đơn vị là yếu tố cực kỳ quan trọng giúp cho TCTCNT hoạt động ổn định, an toàn, hiệu quả. Các cơ quan này cũng cần nhìn nhận tầm quan trọng của TCTCNT trong địa bàn hoạt động của mình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Kinh nghiệm từ các TCTCNT thành công cho thấy, mối quan hệ hỗ trợ lần nhau giữa TCTCNT và các cơ quan địa phương cần được củng cố thông qua cơ chế chính sách hợp tác rõ ràng, hai bên cùng có lợi và vì mục tiêu chung là phát triển cộng đồng.


*


* *

Phát triển hoạt động của các TCTCNT Việt Nam cần đảm bảo tuân thủ theo các quan điểm nhất định, và các quan điểm này được phản ánh trong các định hướng lớn của Đảng và Nhà nước ta cho tới 2020. Đó là: mục tiêu hoạt động rõ ràng, cân bằng lợi ích giữa các bên; phát triển hoạt động trên nguyên

Xem tất cả 251 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí