Tiềm Năng Phát Triển Các Khu Đô Thị Du Lịch Biển Tại Huyện Vân Đồn, Tỉnh Quảng Ninh


- Nhóm chỉ tiêu về thực trạng phát triển khu đô thị du lịch biển bền vững

+ Chỉ tiêu khái quát về các khu đô thị du lịch biển (các khu đô thị du lịch hiện có, tổng diện tích, dân số, mật độ dân cư, cơ sở hạ tầng; đánh giá mức độ phân loại tiêu chí đô thị).

+ Chỉ tiêu phát triển kinh tế ở cáckhu đô thị du lịch biển bền vững (Về cơ cấu kinh tế; Về thu chi ngân sách; Về tỉ lệ hộ nghèo).

+ Chỉ tiêu về phát triển văn hóa xã hội ở các khu đô thị du lịch biển bền vững(Dân số; Thương mại - dịch vụ; Nhà ở; Giáo dục - đào tạo; Y tế và chăm sóc sức khoẻ; Văn hoá - thể dục thể thao; Về phát thanh, truyền hình).

+ Chỉ tiêu về bảo vệ môi trường ở các khu đô thị du lịch bền vững huyện Vân Đồn (Công tác quản lý đất đai; Công tác quản lý tài nguyên khoáng sản được tăng cường; Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; Duy trì việc kiểm tra, giám sát xử lý rác thải của công ty Môi trường đô thị;Tỷ lệ thu gom chất thải)

- Nhóm chỉ tiêucác yếu tố ảnh hưởng đến phát triển khu đô thị du lịch biển bền vững

+ Chỉ tiêu yếu tố khách quan (Nguồn tài nguyên du lịch;Cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị hạ tầng; Đường lối chính sách phát triển du lịch)

+ Chỉ tiêu yếu tố chủ quan(Đào tạo lao động chuyên ngành du lịch (yếu tố con người;Trình độ văn hoá và mức thu nhập của người dân; Tham gia của cộng đồng).


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Chương 3

TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU ĐÔ THỊ DU LỊCH BIỂN THEO HƯỚNG BỀN VỮNG TẠI HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH‌

3.1. Tiềm năng phát triển các khu đô thị du lịch biển tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

Điều kiện để phát triển huyện đã được đánh giá một cách tổng quát trong Đề án Phát triển KT-XH Khu kinh tế Vân Đồn (Quyết định số 786/QĐ-TTg ngày 31/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ). Để khai thác có hiệu quả những tiềm năng của huyện trong thời kỳ quy hoạch tới, cần có sự đánh giá chi tiết tất cả nguồn lực cũng như các yếu tố, điều kiện cho phát triển KT-XH của huyện.

3.1.1. Tài nguyên thiên nhiên

Vị trí địa lý Vân Đồn là huyện miền núi hải đảo nằm ở phía Đông Nam 1

- Vị trí địa lý

Vân Đồn là huyện miền núi, hải đảo nằm ở phía Đông Nam tỉnh Quảng Ninh, hợp thành bởi 2 quần đảo Cái Bầu và Vân Hải; có tọa độ địa lý từ 20o40’ đến 21016’ vĩ Bắc và từ 107o15’ đến 108o00 kinh Đông.

Vân Đồn có 12 đơn vị hành chính gồm thị trấn Cái Rồng, 11 xã với hơn 80 làng mạc.Trong đó, sáu (06) xã trên đảo Cái Bầu là:Đông Xá, Hạ Long,Bình Dân, Đoàn Kết,Đài Xuyên, Vạn Yên.Tuyến đảo Vân Hải cóxã là: Bản Sen,Quan Lạn, Minh Châu,Ngọc Vừng, Thắng Lợi.

Phía Bắc và phía Đông Bắc giáp huyện Tiên Yên (tỉnh Quảng Ninh), huyện Đầm Hà (tỉnh Quảng Ninh);

Phía Đông Nam giáp huyện Cô Tô (tỉnh Quảng Ninh) và vịnh Bắc Bộ;

Phía Tây giáp thành phố Cẩm Phả, thành phố Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh) và vùng vịnh Hạ Long.


Vân Đồn cách Thủ đô Hà Nội 175km, cách thành phố Hải Phòng 80km. Là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của huyện, Thị trấn Cái Rồng cách thành phố Hạ Long 40km về phía Tây, cách cửa khẩu quốc tế Móng Cái khoảng 100km về phía ĐôngVân Đồn có diện tích đất tự nhiên 551,33 km2(Số liệu kiểm kê mới nhất thì tổng diện tích tự nhiên của Vân Đồn là 553,2 km2), gồm 600 hòn đảo lớn nhỏ nằm trong vịnh Bái Tử Long, nhưng chỉ có hơn 20 đảo đất có người ở, còn các đảo nhỏ là núi đá vôi không có người ở. Lớn nhất là đảo Cái Bầu chiếm 55%, trong đó có thị trấn Cái Rồng và 6 xã. Vùng đảo phía ngoài chiếm 45% diện tích gồm 5 xã đảo. Các đảo đều có địa hình đồi núi, độ cao từ 200 đến 300m (núi Nàng Tiên ở đảo Trà Bản cao 450 m, núi Vạn Hoa ở đảo Cái Bầu cao 397 m). [29]

Vị trí của Vân Đồn là một thuận lợi lớn trong việc giao thương với các vùng trong nước và quốc tế:

+ Đối với quốc tế:Từ cảng Vạn Hoa hoặc cảng biển phía Bắc đảo Cái Bầu, theo đường biển, có thể đến các cảng của đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 200 hải lý, Hồng Kông 580 hải lý và Singapore 1.300 hải lý, là khoảng cách phù hợp cho các tour du lịch đường biển quốc tế. Vân Đồn có vị trí địa lý tự nhiên thuận lợi, khi sân bay Vân Đồn được xây dựng và đưa vào sử dụng, từ Vân Đồn chỉ cần khoảng từ 1-2 giờ bay là đến các trung tâm kinh tế, tài chính, du lịch lớn như Thượng Hải, Hồng Kông, Macau, Thẩm Quyến, Hải Nam, Đài Bắc và thủ đô của các nước trong khu vực Đông Nam Á; từ 3-4 giờ bay là có thể đến Bắc Kinh (Trung Quốc), Seoul (Hàn Quốc), Tokyo (Nhật Bản), Dubai (UAE).Quảng Ninh nói chung, Vân Đồn nói riêng là một trong những cửa mở hướng ra biển, trong khu vực hợp tác hai hành lang, một vành đai kinh tế ven biển vịnh Bắc bộ giữa Việt Nam-Trung Quốc và khu vực Đông Bắc Á.[33]

+ Đối với trong nước: Vị trí và địa thế của Vân Đồn là những thuận lợi cơ bản trong việc giao lưu kinh tế, văn hoá - xã hội với các địa phương khác trong cả nước. Vân Đồn nằm trong tuyến hành lang phát triển Duyên hải Bắc bộ với những trung tâm phát triển như thành phố cửa khẩu Móng Cái, Khu công nghiệp Hải Hà, Trung tâm khai thác than lớn nhất cả nước Cẩm phả-Cửa Ông, Thành phố di sản Hạ Long, Khu đô thị/công nghiệp/dịch vụ cảng biển Lạch Huyện-Đầm Nhà Mạc là


những tiềm năng cho phát triển công nghiệp. Vân Đồn nằm kề cận và chỉ cách Di sản Văn hóa Thế giới Vịnh Hạ Long 40 km. Hằng năm, thành phố Hạ Long tiếp nhận 6-8 triệu du khách (2-3 triệu du khách nước ngoài), Vân Đồn có cơ hội cực kỳ lớn trong việc thu hút khách du lịch quốc tế. [33]

- Địa hình:

Khu vực huyện Vân Đồn chủ yếu là đồi núi thấp và đảo đá, chiếm khoảng 70% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện. Ngoài ra có một phần nhỏ diện tích là đồng bằng ven biển, chiếm khoảng 1,5% tổng diện tích, là những dải nhỏ hẹp ven bờ biển từ bến phà Tài Xá (cũ) tới xã Hạ Long.

Theo điều tra cơ bảnđịa hình đáy biển của khu vực Vân Đồn tương đối đơn giản và bằng phẳng. Vật liệu tích tụ chủ yếu là cát bột, sỏi sạn và một phần vụn vỏ sinh vật. Một số vùng nước sâu, cửa biển đáy tồn tại các rạn đá.

Do địa hình là quần đảo, chủ yếu là các đảo nhỏ, nhiều đảo là núi đá vôi, nên trong diện tích tự nhiên của huyện, diện tích đất chiếm tỷ trọng không lớn, chủ yếu là diện tích mặt biển, thuận lợi cho phát triển kinh tế biển. Trên các đảo không có sông ngòi lớn, chỉ có vài con suối nhỏ. Có một số sông nối giữa các đảo với nhau và với đất liền như: sông Voi Lớn nằm giữa đảo Cái Bầu, sông Mang ở đảo Quan Lạn.

Huyện đảo Vân Đồn, nằm trong vịnh Bái Tử Long, có nhiều đảo đá vôi và những hang động đẹp, nối liền với vịnh Hạ Long - di sản thế giới.

- Khí hậu:

Thuộc khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, với mùa hè nóng và ẩm, mùa đông khô và lạnh, Vân Đồn bị chi phối bởi khí hậu duyên hải, chịu ảnh hưởng và tác động của biển, tạo ra những tiểu vùng sinh thái hỗn hợp miền núi, ven biển. Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn Quảng Ninh, Vân Đồn có đặc trưng thời tiết khí hậu như sau:

Nhiệt độ trung bình: không cao, khoảng 23oC cả năm. Nhiệt độ cao nhất thường vào tháng 6-7, dao động trong khoảng 26-30oC. Thấp nhất vào tháng 1 hàng năm, trung bình khoảng 14-18oC. Chênh lệch giữa các tháng liền kề thường không quá 4oC.

Chế độ mưa: Mưa thường tập trung chủ yếu vào các tháng mùa hè với lượng mưa trên 200 mm/tháng. Tháng có mưa nhiều nhất là tháng 7 và tháng 8. Tháng


mưa ít nhất vào tháng 12 và tháng 1, tháng 2 năm sau. Lượng mưa trung bình cả năm dao động từ 14 - 20 mm, mùa đông, lượng mưa lớn nhất của một ngày có thể đạt 350 - 450 mm.[33]

- Thủy văn, hải văn:

Huyện đảo Vân Đồn có địa hình đảo hẹp, núi đồi dốc, có ít sông suối, chỉ có một con sông Voi Lớn (chiều dài 18km) chảy qua địa phận các xã: Đài Xuyên, Bình Dân, Đoàn Kết, Đông Xá, rồi đổ ra biển qua ba con suối có độ dài từ 10 - 25 km, thường cạn vào mùa khô. Dòng chảy của sông suối huyện Vân Đồn chia thành hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Lượng nước mưa chiếm tới 75 - 85% tổng lượng nước cả năm. Mạng lưới sông suối ít và phân bố rải rác, dòng chảy nhỏ đã gây những khó khăn lớn về cung cấp nguồn nước ngọt.

Khu vực huyện Vân Đồn có chế độ nhật triều thuần nhất, trong một ngày có một lần nước lớn và một lần nước ròng. Các đỉnh triều (nước lớn) thường cách nhau 25 giờ. Số ngày có một lần nước lên và một lần nước xuống chiếm 85 - 95% (tức trên 25 ngày) trong tháng. Khu vực huyện Vân Đồn có biên độ thủy triều vàoloại lớn nhất nước ta, khoảng 3,5 - 4,0 m.

Sóng biển ở Vân Đồn có cấp độ không cao như ở ngoài khơi do có rất nhiều hòn đảo như bức rào chắn không cho sóng phát triển. Sóng cao nhất chỉ xuất hiện ở hướng Nam và Tây Nam với tần suất nhỏ. Sóng ở đây chủ yếu là sóng gió (sóng do gió). Địa hình đáy biển không sâu và đà gió không mạnh làm cho sóng không thể phát triển mạnh được, kể cả khi có các biến động thời tiết mạnh như bão. Sóng biển ở Vân Đồn thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản bằng hình thức lồng bè trên biển.

- Tài nguyên đất, rừng:

Đất đai của huyện Vân Đồn được chia thành hai vùng chính: Vùng đồng bằng ven biển và vùng đồi núi. Vùng đồng bằng ven biển được chia thành ba loại đất chính: đất cồn cát và bãi cát, đất cát biển và đất mặn.

Đất cồn cát và bãi cát: Đất cồn cát và bãi cát có diện tích khoảng 4.424 ha chiếm 8,02% diện tích đất tự nhiên toàn huyện, được phân bố sát mép nước và cửa sông bãi biển thuộc các xã: Ngọc Vừng, Minh Châu, Quan Lạn, Bản Sen, Hạ Long,


Đông Xá, Vạn Yên. Đặc điểm chung là dễ nóng lên và lạnh đi đột ngột, giữ nước kém, đất chua, độ phì kém.[33]

Đất cát biển: Phân bố ở các xã: Hạ Long, Đông Xá, Ngọc Vừng, Minh Châu, Quan Lạn, Đài Xuyên, Bình Dân, là loại đất do quá trình sóng biển thủy triều xô đẩy đọng lại khi nước biển lùi dần tạo thành những bãi cát sát mép biển, do quá trình lao động cần cù và sáng tạo của nhân dân, có nơi tạo thành đồng ruộng để sản xuất.

Đất mặn: Là loại đất được hình thành do sản phẩm của sông biển bồi tụ, bị nước biển xâm nhập nên bị mặn, trong lòng đất có xác rễ sú, vẹt thối mục thải ra các khí độc như CH4, H2S, axít hữu cơ làm cho đất bị nhiễm độc và chua. Loại đất này được phân bố tại hầu hết các xã trong huyện như: Bình Dân, Đài Xuyên, Vạn Yên, Đoàn Kết, Quan Lạn, Ngọc Vừng, ĐôngXá, Hạ Long... với diện tích khá lớn khoảng 3.103,36 ha chiếm 5,63% diện tích đất tự nhiên của toàn huyện, có vai trò rất lớn trong sản xuất nông nghiệp của huyện.

Đất của Vân Đồn khá rộng, còn ở dạng tương đối hoang sơ, chia thành 2 khu, đất liền và các đảo. Đất tại huyện khá đa dạng, có đủ các loại: đất liền, hải đảo; đất mặt và cả thềm lục địa. Đây là điều kiện tốt để tổ chức quy hoạch, xây dựng phát triển.

Rừng ở Vân Đồn phong phú với nhiều chủng loại, đặc biệt vườn quốc gia Bái Tử Long gồm những khu rừng nguyên sinh quý giá như rừng Trà Ngọ, rừng Trâm Minh Châu, rừng Ba Mùn. Rừng ngập mặn là một nguồn tài nguyên cần được giữ gìn và khai thác hợp lý.

Vân Đồn có tới 68-70% diện tích đất tự nhiên là rừng và đất rừng. Rừng trên nhiều đảo có nhiều lâm sản, trong đó có nhiều loại gỗ quí như lim, lát, sến, táu, nghiến, mun, kim giao, đặc biệt là gỗ mần lái (làm đình Quan Lạn) không thấy có ở các nơi khác. Rừng có nhiều chim thú quí như khỉ lông vàng, vọoc đầu bạc, đại bàng đất, công, trĩ, hươu sao, lợn rừng... Đặc biệt đảo Ba Mùn là một vùng rừng nguyên sinh, từ năm 1977 đã được Nhà nước quy định là rừng cấm quốc gia bảo vệ thiên nhiên (tại Quyết định số 41-TTg ngày 24/ 1/1977), nay lại được Chính phủ ra quyết định số 85/2001/QĐ-TTg ngày 01/6/2001 cho thành lập vườn quốc gia Bái Tử Long. Đây là một trong 25 vườn quốc gia của cả nước còn nguyên vẹn hệ sinh


thái đa dạng sinh học (Vườn quốc gia Bái Tử Long có diện tích tự nhiên 15.178,3 ha được hợp thành từ trên 20 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó diện tích có rừng là 4.328 ha. Trên đảo có hệ thực vật rất đa dạng, phong phú gồm hơn 117 họ, 337 chi, 494 loài, trong đó có 11 loài quí hiếm nằm trong sách đỏ Việt Nam. Hệ động vật cũng rất phong phú, còn khá hoang dã, gồm 37 loài thú, 96 loài chim, 15 loài lưỡng cư, 22 loài bò sát, trong đó có tới 9 loại quí hiếm nằm trong sách đỏ Việt Nam).[32]

- Tài nguyên biển

Các hệ sinh thái biển đặc trưng là cơ sở tạo nên vùng biển có nguồn lợi thủy sản phong phú, đa dạng và có trữ lượng khá lớn. Vùng biển Bái Tử Long, với điều kiện tự nhiên có được đầy đủ các yếu tố đặc trưng, thể hiện các hệ sinh thái biển điển hình:

Hệ sinh thái rạn san hô: Hệ sinh thái San hô trên vùng biển tỉnh Quảng Ninh với độ phủ của rạn đạt từ 42,7 - 57,1%, thuộc vào loại cao của vịnh Bắc Bộ. Đến nay đã thống kê được khoảng 750 loài sinh vật biển tại vùng ven biển Quảng Ninh, trong đó có vùng ven biển huyện Vân Đồn. Các loài bao gồm thực vật ngập mặn 30 loài, rong cỏ biển 69 loài, thực vật phù du và tảo độc hại 213 loài, động vật phù du 97 loài, động vật đáy 208 loài thuộc 128 giống, 63 họ, san hô có 102 loài thuộc 13 họ và 37 giống, cá biển 133 loài. Hệ sinh thái rạn san hô là nét đặc trưng của vùng biển Quảng Ninh.

Hệ sinh thái rừng ngập mặn: Vân Đồn có 7.381 ha rừng ngập mặn. Thực vật ngập mặn ở Bái Tử Long có vai trò to lớn như: Tham gia vào hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới, điều hòa khí hậu, tham gia kiến tạo bảo vệ cảnh quan ven bờ, chống xói mòn, hạn chế bão gió, bảo vệ đê ven biển... Đặc biệt, rừng ngập mặn góp phần làm sạch môi trường do có thể làm giảm hàm lượng kim loại nặng có trong nước thải nội địa đổ ra vùng cửa sông, ven biển, đồng thời giữ gìn sự cân bằng sinh thái tự nhiên cho những vùng đất bị ngập nước. Rừng ngập mặn giống như một ngân hàng gen giống của các giống loài thủy sản, một nhà máy lọc chất thải, ngăn chặn những ô nhiễm môi trường biển do rác thải, nước thải ven bờ xả ra biển.

Hệ sinh thái vùng triều: Là một trong 3 hệ sinh thái biển quan trọng của tỉnh Quảng Ninh được phân bố hầu hết trên các vùng ven biển các huyện. Những hệ sinh


thái vùng triều có năng suất sinh học cao, nguồn lợi hải sản phong phú và có giá trị kinh tế cao như: Vùng bãi triều xã Minh Châu, Quan Lạn. Nằm trong Vịnh Bái Tử Long, các xã Minh Châu, Quan Lạn là vùng biển tập hợp của nhiều hệ sinh thái điển hình, có nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế, quí hiếm. Các rạn san hô ven đảo là nơi phân bố của các loài hải sản có giá trị kinh tế như cá song, cầu gai, tôm, bàn mai, hải sâm và các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Các rạn san hô là nơi quần cư của trai ngọc, bào ngư, vẹm xanh, hàu. Rừng ngập mặn là nơi phân bố của cua, ngán, ghẹ. Đặc biệt vùng bãi triều của xã Minh Châu, Quan Lạn là nơi phân bố của loài hải sản đặc biệt quí hiếm là Sá sùng. Đây là một loài hải sản có giá trị kinh tế cao, chủ yếu phân bố trên vùng biển khu vực này.

Như vậy biển không chỉ mang lại nguồn lợi lớn về du lịch mà còn là điều kiện khá thuận lợi để Vân Đồn đã, đang và sẽ phát triển kinh tế đa dạng, bao gồm vận tải biển; đánh bắt, nuôi trồng và chế biến hải - đặc sản chất lượng cao. Cụ thể:

+ Khu vực cảng Vạn Hoa có mớn nước sâu, đã hình thành từ rất sớm, nhiều năm đã phát huy tác dụng; sẽ được quy hoạch xây dựng thành một cảng biển trong hệ thống cảng biển của khu vực. Ngoài ra các cảng, bến nhỏ có đủ điều kiện để quy hoạch xây dựng đồng bộ gắn với các đảo tạo thành hệ thống các cảng, bến phục vụ du lịch, dân sinh, thương mại, giao lưu buôn bán...

+ Vân Đồn có một ngư trường rộng lớn trong vùng biển vịnh Bắc Bộ. Ở đây có nhiều vũng vịnh, bãi triều ven biển và rừng ngập mặn tạo nên nguồn lợi thuỷ, hải sản và tài nguyên biển khá phong phú. Nhiều chủng loại hải sản quý như tôm he, cá mực, sá sùng, cua, ghẹ, trai ngọc, bào ngư, ốc bể, tu hài, hàu... đã và đang mang lại nguồn lợi to lớn cho dân cư trên đảo.

+ Vân Đồn có thềm lục địa rộng khoảng 1.620km2 (gấp 3 lần diện tích đất nổi của khu) nằm trong vịnh Bái Tử Long, có nguồn hải sản khá phong phú, bao gồm: mực ống, tôm, cua, cá, nhuyễn thể, bào ngư, ốc biển, ngọc trai... có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao, tập trung ở vùng quần đảo Vân Hải, nơi có khả năng cho phép khai thác hàng chục ngàn tấn mỗi năm. Nghề đánh cá biển có truyền thống lâu đời. Nghề nuôi trồng hải sản có từ những năm 90 của thế kỷ XX và được phát triển nhanh, trong đó nghề nuôi nhuyễn thể phát triển nhất. Hiện đã có một số doanh

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 26/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí