Pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ở Việt Nam - 2

thành phố Hồ Chí Minh và một số giải pháp can thiệp (2007-2009)”.

Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu về hoạt động

+ Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Quang Trung về “Nghiên cứu thực trạng hoạt động của các cơ sở hành nghề y tế tư nhân tại Hà Nội, Đà Nẵng,


chuyên môn của các cơ sở y tế tư nhân. Một số công trình nghiên cứu y tế tư

nhân dưới góc độ pháp luật có thể kể đến:

+ Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công “Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế” của tác giả Nguyễn Hoàng Phúc (2000);

+ Luận án Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia,

Hà Nội “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực y tế ở nước ta hiện

nay” của tác giả Nguyễn Huy Quang (2010).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Có thể thấy các công trình nghiên cứu mới chỉ quan tâm về chuyên

môn y tế và quản lý nhà nước trong y tế tư nhân. Chưa có một công trình

Pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ở Việt Nam - 2

hoạt động của bệnh viện tư nhân.

3. Mục tiêu nghiên cứu

3.1. Mục tiêu tổng quát

Mục tiêu tổng quát của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ, đánh giá

khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ về pháp luật bệnh viện tư nhân, từ đó đưa ra khuyến nghị hoàn thiện pháp luật, tăng cường kiểm tra, giám sát và tạo điều kiện cho hoạt động thực tiễn, nâng cao hiệu quả


luật về điều kiện hoạt động của bệnh viện tư.

3.2. Mục tiêu cụ thể

Để đạt được mục tổng quát, luận văn cần làm rõ những vấn đề lý luận về

tính phù hợp của các chế định pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp


đặc điểm của bệnh viện tư, pháp luật tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư. Nghiên cứu về điều kiện, trình tự thủ tục cấp giấy phép hoạt động và thực trạng

những hạn chế đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về bệnh viện tư.

4. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Có thể nói nghiên cứu pháp luật về tổ chức, hoạt động của bệnh viện tư

hoạt động của bệnh viện tư hiện nay. Đồng thời chỉ ra mặt hạn chế trong quy trình, thủ tục đó, ảnh hưởng đến hoạt động và chất lượng của bệnh viện tư. Từ


động của bệnh viện tư, những khó khăn trong phát triển bệnh viện tư.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư ở Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp

là đề tài khá mới mẻ chưa có nhiều tác giả nghiên cứu sâu. Phần lớn những vấn đề được quan tâm là xây dựng y tế tư nhân, so sánh giữa y tế tư và y tế công... Việc nghiên cứu về điều kiện hoạt động không những đưa ra giải pháp tăng cường công tác quản lý mà còn hoàn thiện hệ thống y tế tư nhân, để hệ thống tư nhân phát triển bền vững, hạn chế những mặt tồn tại, những rủi ro đáng tiếc trong việc khám chữa bệnh cho người dân. Đề tài này cũng góp phần làm rõ lý luận trong việc nghiên cứu, điều chỉnh trình tự, thủ tục hoạt


2010 đến nay.

6. Nội dung và phương pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những nội dung sau: Cơ sở lý luận của pháp luật

luật Việt Nam, bao gồm: Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật khám bệnh, chữa bệnh, Luật bảo hiểm y tế và các văn bản dưới luật, các nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách pháp luật… về hoạt động của bệnh viện tư và thực trạng hoạt động của bệnh viện tư ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm


về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân; Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân Việt Nam hiện nay; Định hướng

hoàn thiện và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động

của bệnh viện tư nhân.

Phương pháp nghiên cứu của luận văn

Phần lý luận chung về pháp luật về điều kiện hoạt động của bệnh viện

tư sử dụng các phương pháp nghiên cứ bao gồm: phương pháp diễn dịch,

phân tích, tổng hợp.

Phần thực trạng thực thi pháp luật trong hoạt động của bệnh viện tư sử

dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm phương pháp diễn dịch, thống kê,

so sánh, phân tích.

Phần giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động

của bệnh viện tư sử dụng phương pháp nghiên cứu bao gồm: phương pháp

phân tích, tổng kết, diễn dịch.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân

Chương 2: Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân

Chương I

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT

VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN

1.1.Khái quát về bệnh viện tư nhân

1.1.1.Khái niệm bệnh viện tư nhân

Trong những năm gần đây, hệ thống y tế Việt Nam ngày càng hiện đại, các dịch vụ y tế ngày càng phát triển và đem lại hiệu quả cao. Người dân có thêm nhiều cơ hội tiếp cận các thông tin y tế, được bảo vệ, chăm sóc nâng cao sức khỏe một cách khá toàn diện. Hệ thống y tế Việt Nam được tổ chức theo tổ chức hành chính bao gồm y tế tuyến trung ương, y tế tuyến địa phương, y tế cơ sở hoặc theo lĩnh vực hoạt động như khám chữa bệnh, điều dưỡng, y tế dự phòng, y tế công cộng, giám định, kiểm nghiệm, dược, thiết bị y tế hoặc tổ chức dựa theo tính chất chủ sở hữu bao gồm y tế Nhà nước và y tế tư nhân. Y tế tư nhân ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong hoạt động khám chữa bệnh. Khi y tế tư nhân phát triển thì các cơ sở y tế tư nhân đặc biệt là bệnh viện tư nhân cũng phát triển theo, cả về số lượng, quy mô và chất lượng dịch vụ thu hút ngày càng nhiều người dân có nhu cầu khám chữa, bệnh. Theo khoản 2, điều 2 của Pháp lệnh 07/2003/PL-UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về hành nghề y dược tư nhân:

Các cơ sở hành nghề y, dược tư nhân bao gồm:

a) Cơ sở y, dược tư nhân;

b) Cơ sở y, dược dân lập;

c) Cơ sở y, dược có vốn đầu tư nước ngoài.

Trong đó cơ sở y, dược tư nhân là cơ sở do cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và quản lý, điều hành. Cơ sở y, dược dân lập là cơ sở do tổ chức đứng ra thành lập, được đầu tư bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước do tổ chức, cá nhân đóng góp và tự quản lý, điều hành. [24]

Là một bộ phận không thể tách rời của một tổ chức xã hội y tế, bệnh viện là một cơ sở khám và điều trị bệnh được nhà nước công nhận, có chức năng chăm sóc sức khỏe toàn diện cho nhân dân. Bệnh viện không chỉ có khả năng và phương tiện chẩn đoán bệnh, điều trị và phẫu thuật, có điều kiện thuận lợi cho việc điều trị ngoại trú, nội trú mà còn là trung tâm đào tạo cán bộ y tế và nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, bệnh viện còn có chức năng chỉ đạo tuyến, hệ thống các bệnh viện được tổ chức theo tuyến kỹ thuật, tuyến trên có trách nhiệm chỉ đạo kỹ thuật cho tuyến dưới; chức năng phòng bệnh, song song với khám, chữa bệnh, phòng bệnh là nhiệm vụ quan trọng của bệnh viện; chức năng hợp tác quốc tế, bệnh viện thực hiện hợp tác quốc tế theo quy định của Nhà nước; chức năng quản lý kinh tế, thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước về thu, chi ngân sách của bệnh viện từng bước tổ chức thực hiện việc hạch toán chi phí về khám bệnh, chữa bệnh trong bệnh viện.

Bệnh viện thường được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, dựa vào chức năng chuyên môn để phân loại thành bệnh viện đa khoa có thể xét nghiệm, chữa trị hầu hết các loại bệnh, bệnh viện chuyên khoa dựa trên nhu cầu điều trị đặc biệt hoặc phân loại bệnh viện theo tuyến hoặc dựa vào tính chất sở hữu và hệ thống quản lý có thể phân loại thành bệnh viện công lập (do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập và quản lý theo quy định của pháp luật) và bệnh viện tư nhân (do cá nhân tổ chức không phải nhà nước đăng ký thành lập, sở hữu và điều hành). “Bệnh viện tư là một trong các thành phần kinh tế ngoài nhà nước cùng tham gia cung cấp các dịch vụ y tế, tham gia vào lực lượng xã hội để bổ khuyết cho khu vực y tế công” [12, tr.26], phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu khám, chữa bệnh trong xã hội. Nhiệm vụ của bệnh viện tư nhân được quy định cụ thể trong khoản 1 điều 7 Quyết định 217-BYT/QĐ:

- Khám bệnh, kê đơn, chữa bệnh và làm các thủ thuật theo quy định của các cơ quan y tế có thẩm quyền và Hội đồng chuyên môn xét duyệt tiêu chuẩn

hành nghề y tế tư nhân cùng cấp tuỳ theo năng lực cán bộ và các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật khác.

- Phải tiếp nhận và giải quyết mọi trường hợp cấp cứu hoặc sơ cứu rồi chuyển ngay bệnh nhân đến các cơ sở y tế Nhà nước gần nhất.

Như vậy, bệnh viện tư nhân là cơ sở y tế do các cá nhân, tổ chức góp vốn thành lập, thực hiện cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh, thực hiện đồng thời các mục tiêu kinh doanh và phát triển sự nghiệp y tế.

1.1.2. Đặc điểm của bệnh viện tư nhân

Là một tổ chức do các nhân, tổ chức đầu tư kinh doanh, thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh cho người dân, bệnh viện tư nhân vừa có những đặc điểm của doanh nghiệp vừa có đặc điểm của một đơn vị sự nghiệp.

Bệnh viện tư nhân là hình thức doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực khám, chữa bệnh, là cơ sở kinh doanh có điều kiện. Bệnh viện tư nhân hội tụ đầy đủ các điều kiện của một thương nhân bao gồm: “Thực hiện các hành vi thương mại một cách thường xuyên và lấy chúng làm nghề nghiệp của mình; Tự thân thực hiện các hành vi thương mại, tức là thực hiện các hành vi thương mại dưới danh nghĩa và tài khoản của họ” [5]. Bệnh viện tư nhân là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cung cấp dịch vụ thương mại là dịch vụ y tế nhằm mục đích sinh lợi. Bệnh viện tư tham gia vào các hoạt động kinh doanh với tư cách là chủ thể pháp luật độc lập, có khả năng bằng hành vi của mình, nhân danh chính mình tham gia các quan hệ pháp luật và tự chịu trách nhiệm đối với các hành vi đó. Các hoạt động kinh doanh của bệnh viện tư nhân được tiến hành thường xuyên, liên tục, và nguồn thu nhập chính là từ hoạt động kinh doanh đó. Để có thể đi vào hoạt động, bệnh viện tư phải đáp ứng các thủ tục hành chính như được cấp giấy phép đăng kí kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp và các giấy phép khác liên quan đến hoạt động chuyên môn. Ngoài ra doanh nghiệp thành lập bệnh viện còn phải đáp ứng các yêu

cầu về nguồn lực con người, tài chính, cơ sở vật chất, quy trình quản lý, quy trình kỹ thuật, địa điểm kinh doanh v.v... theo quy định của pháp luật và duy trì những yêu cầu đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Bệnh viện tư nhân là cơ sở kinh doanh có điều kiện do kinh doanh trong lĩnh vực khám chữa bệnh là ngành nghề có điều kiện theo quy định tại Luật Đầu tư.

Bệnh viện tư là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xã hội đặc biệt. Dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa tồn tại chủ yếu dưới hình thái vô hình, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thỏa mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống của con người. Dịch vụ xã hội là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cộng đồng và cá nhân nhằm phát triển xã hội, có vai trò đảm bảo phúc lợi và công bằng xã hội, đề cao giá trị đạo lý, nhân văn, vì con người, là hoạt động mang bản chất kinh tế

- xã hội, do nhà nước, thị trường hoặc xã hội dân sự cung ứng, tùy theo tính chất thuần công, không thuần công hay tư của từng loại hình dịch vụ, bao gồm các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ, văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao và các trợ giúp xã hội khác [22]. Trong đó dịch vụ y tế chủ yếu do Nhà nước cung cấp, nhưng khu vực tư nhân cũng đã nhanh chóng tham gia cung cấp dịch vụ này, đặc biệt là khối bệnh viện tư nhân. Bệnh viện tư nhân cung cấp dịch vụ y tế là dịch vụ xã hội đặc biệt bởi:

Dịch vụ y tế cũng tham gia vào tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, tạo cơ hội việc làm và tạo khả năng phát triển dịch vụ khác. Bên cạnh mục tiêu vì lợi nhuận, dịch vụ y tế còn bị điều tiết bởi yếu tố đạo đức, nhân văn, do dịch vụ y tế là dịch vụ xã hội tác động trực đến con người, gắn với trách nhiệm cao trước sức khỏe con người và tính mạng người bệnh. Chất lượng dịch vụ y tế không chỉ đơn thuần đánh giá bằng giá cả trên thị trường như các dịch vụ khác mà còn dựa trên sự hài lòng của người bệnh, kết quả công tác khám chữa bệnh, ứng xử, tác phong chăm sóc bệnh nhân của đội ngũ y bác

sĩ…Dịch vụ y tế khác với các dịch vụ kinh tế hay xã hội khác vì liên quan đặc biệt đến các quyền con người như quyền được sống, quyền được bảo vệ sức khỏe. Tất cả mọi người trong xã hội không phân biệt lứa tuổi, giàu nghèo đều được hưởng một mức chăm sóc y tế tối thiểu như nhau. Do liên quan chặt chẽ đến yếu tố nhân đạo, nên dịch vụ y tế không bị nguyên tắc thị trường chi phối hoàn toàn. Nhà nước sử dụng hệ thống pháp luật để điều tiết và kiểm soát các doanh nghiệp bệnh viện trong việc cung ứng dịch vụ y tế theo yêu cầu của nhà nước, quy định, kiểm soát quy trình hoạt động của bệnh viện để đảm bảo quyền lợi cho người bệnh. Bệnh viện tư nhân do tư nhân thành lập dưới sự cho phép, ủy quyền của Nhà nước trong việc trực tiếp cung ứng dịch vụ y tế cho xã hội, được sự trợ giúp từ Nhà nước bằng các chính sách miễn, giảm thuế, các chính sách ưu đãi trong quá trình thành lập và hoạt động.

Trong cung ứng dịch vụ, việc xác định đối tượng phục vụ là rất quan trọng. Xác định được đối tượng phục vụ, doanh nghiệp sẽ đáp ứng đúng, kịp thời, nhu cầu của khách hàng, đảm bảo hoạt động cho doanh nghiệp. Bệnh viện tư là doanh nghiệp cung cấp hàng hóa là dịch vụ y tế phục vụ đối tượng khách hàng đặc biệt là người bệnh. Khách hàng ở đây là người bệnh, trên thực tế thường có ít thông tin về bệnh tật và chỉ định điều trị, do vậy hầu như người bệnh phải hoàn toàn dựa vào các quyết định của bệnh viện trong việc lựa chọn dịch vụ y tế, không thể tùy ý lựa chọn dịch vụ mà phải theo sự hướng dẫn của các y bác sĩ có chuyên môn. Cụ thể, khi người dân có nhu cầu khám chữa bệnh, việc điều trị bằng phương pháp nào, thời gian bao lâu hoàn toàn do thầy thuốc quyết định. Như vậy, người ta chỉ có thể lựa chọn nơi điều trị và ở một chừng mực nào đó, người chữa chứ không chủ động lựa chọn được phương pháp điều trị cho mình. Mặt khác, do dịch vụ y tế là loại hàng hoá gắn liền với tính mạng con người nên mặc dù không có tiền nhưng người bệnh vẫn cần được khám, chữa bệnh (mua dịch vụ). Điểm này khiến đối tượng khách hàng

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 29/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí