Đẩy Mạnh Hợp Tác Quốc Tế Về Bảo Vệ Và Phát Huy Giá Trị Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể Trong Thời Gian Tới

137

việc giáo dục pháp luật về di sản văn hóa thì việc giáo dục di sản văn hóa nói chung, trong đó có di sản văn văn hóa phi vật thể, đặc biệt là cho thế hệ trẻ/tuổi trẻ học đường, cần được xúc tiến ở các trường học. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Hướng dẫn 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên, với mục đích sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên nhằm hình thành và nâng cao ý thức tôn trọng, giữ gìn, phát huy những giá trị của di sản văn hóa; rèn luyện tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong đổi mới phương pháp học tập và rèn luyện; góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu, tài năng của học sinh. Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã đạt được hiệu quả cao qua 5 năm thực hiện theo định hướng nêu trên.

Một vấn đề cần lưu ý là các chương trình giáo dục về xã hội hóa cần được nghiên cứu xây dựng với nội dung đa dạng, có chiều sâu, hình thức phù hợp với các đối tượng để phổ biến đến tận người dân ở mọi địa bàn trên toàn quốc, nhất là những vấn đề đã và đang thu hút được sự quan tâm của dư luận xã hội như ghi danh và bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể v.v..

Tích cực phổ biến các mô hình xã hội hóa hoạt động tốt để làm cơ sở học tập, nhân rộng. Tôn vinh và có hình thức khen thưởng xứng đáng đối với các tổ chức, cá nhân điển hình trong các hoạt động xã hội hóa, nhằm thiết thực động viên và tạo một phong trào rộng khắp. Ưu tiên cho việc tuyên truyền tại các địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Ba là, xây dựng cơ chế khuyến khích xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn

hóa

Nhà nước khuyến khích/huy động các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đóng

góp kinh phí để tổ chức các hoạt động truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể. Vì vậy, cần bổ sung các quy định cụ thể về ưu đãi đầu tư, hỗ trợ, giảm hoặc miễn thuế cho các hoạt động được thực hiện từ các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về thuế. Bên cạnh đó, cần chú ý biểu dương, khen thưởng kịp thời đối với những tổ chức, cá nhân có đóng góp thiết thực mà không vì mục đích lợi nhuận.

Ngày nay, theo định hướng của Nhà nước, việc khuyến khích, mở rộng xây dựng các bảo tàng hoặc các sưu tập tư nhân, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, phù hợp với truyền thống văn hóa, thuần phong mỹ tục của các dân tộc, đã mở ra cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể một hướng tiếp cận mới, có khả năng quy tụ các nguồn lực trong dân với mục tiêu đa dạng hóa các hình thức hoạt động, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, để đạt được hiệu quả cao nhất.

138

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

Bốn là, xây dựng chính sách tôn vinh các nghệ nhân có đóng góp trong việc giữ gìn và truyền dạy bí quyết về di sản văn hóa phi vật thể

Để di sản văn hóa được bảo tồn và phát huy ngay trong môi trường sinh thái - nhân văn nói chung đã được sáng tạo ra và tồn tại qua nhiều biến động lịch sử, công tác phong tặng danh hiệu cao quý của Nhà nước cho những người nắm giữ, thực hành và truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể cũng như những chính sách đãi ngộ cho những đối tượng này trong những năm qua đã được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm: Nhà nước đã từng bước ban hành và hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật có liên quan. Ở cấp độ các tổ chức, Danh hiệu “Nghệ nhân dân gian” đã được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đưa ra. Một số địa phương như Thành phố Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phú Thọ,… đã và đang xây dựng quy chế để xét phong tặng và có chính sách đãi ngộ cho những nghệ nhân, người thực hành di sản văn hóa phi vật thể ở địa phương.

Pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam - 19

Đối với lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, nghệ nhân, người thực hành có vị trí quan trọng hàng đầu. Hơn hết, họ là người được kế thừa, có nhiệm vụ gìn giữ, thực hành và trao truyền lại cho thế hệ mai sau. Di sản văn hóa phi vật thể tồn tại phụ thuộc toàn bộ vào nghệ nhân, người thực hành. Với di sản văn hóa phi vật thể, nghệ nhân, người thực hành được ví như những “bảo tàng sống”, “kho tàng di sản văn hóa sống” mà không thể có một hình thức vật chất nào thay thế được. Mỗi khi có một nghệ nhân nào mất đi thì họ đã mang theo toàn bộ “kho tàng” đó theo. Hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trên mọi phương diện từ ban hành chính sách, thực hiện công tác quản lý,… đều nhằm tới mục tiêu bảo vệ, hỗ trợ, thúc đẩy nghệ nhân, người thực hành và cộng đồng của họ không ngừng gìn giữ, thực hành và trao truyền. Thời gian qua đã có nhiều nghệ nhân tiêu biểu đã mất đi trước khi nhận được sự tôn vinh, chính sách đãi ngộ xứng đáng. Bên cạnh đó, có nhiều nghệ nhân đang gặp nhiều khó khăn không chỉ trong hoạt động thực hành di sản văn hóa phi vật thể mà còn khó khăn ngay trong chính cuộc sống bởi họ là những người không thuộc các cơ quan nhà nước, không có lương, chính sách xã hội. Họ còn là những người sinh sống ở các vùng dân tộc thiểu số, khó khăn.

Trong thời gian từ 2001 đến nay (Luật Di sản văn hóa được ban hành năm 2001 với những điều khoản quy định về việc Nhà nước có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, người thực hành di sản văn hóa và Luật Thi đua, khen thưởng được ban hành năm 2003 với những điều khoản quy định việc phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú”), chưa có danh hiệu, chính sách tôn vinh nào dành cho những nghệ nhân, người thực hành di sản văn hóa phi vật thể. Danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” mới chỉ xét đến các đối tượng thuộc lĩnh vực nghề thủ công truyền thống. Cùng với đó là yêu cầu của xã hội cũng như của công tác quản lý di sản văn hóa là cần phải có danh hiệu và chính

139

sách đãi ngộ cho những đối tượng là nghệ nhân, người thực hành di sản văn hóa phi vật thể. Đã có nhiều ý kiến của các cử tri đề nghị tới Quốc hội. Đã có hàng trăm bài báo phản ảnh, đề nghị các cấp quản lý cần phải quan tâm hơn tới những đối tượng này. Hoạt động tôn vinh nghệ nhân, người thực hành di sản văn hóa phi vật thể còn tác động tới xã hội quan tâm hơn tới nghệ nhân, người thực hành nói riêng và tới di sản văn hóa phi vật thể nói chung.

Vì vậy, Nghị định số 62/2014/NĐ-CP ngày 25/6/2014 của Chính phủ quy định đối tượng, tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể và Nghị định số 109/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015 của Chính phủ quy định về việc hỗ trợ đối với Nghệ nhân nhân dân và Nghệ nhân ưu tú có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn, đã phần nào đáp ứng yêu cầu đặt ra của công tác quản lý di sản văn hóa và thực tiễn xã hội đặt ra, góp phần từng bước hoàn thiện pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Việc tôn vinh, có chính sách đãi ngộ đối với họ - những “báu vật nhân văn sống” - chính là việc công nhận sự đóng góp của họ đồng thời tạo điều điều kiện để họ tiếp tục gìn giữ, thực hành và quan trọng hơn đó là truyền dạy cho thế hệ trẻ. Tuy nhiên, quy định trong Nghị định thu hẹp phạm vi các Nghệ nhân được hưởng đãi ngộ và không nên tiếp cận từ chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ hộ nghèo, mà phải tiếp cận từ chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, thậm chí mở rộng đối tượng không chỉ giới hạn ở các Nghệ nhân đã được phong tặng danh hiệu, được hưởng trợ cấp sinh hoạt hàng tháng và các ưu đãi khác, từ nguồn vốn xã hội hóa.

Năm là, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể

Ngày nay, trong công cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hóa, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh.

Sự phát triển của ngành Di sản văn hóa trong bối cảnh chung ấy cũng đòi hỏi một nguồn nhân lực đông đảo, có trình độ cao, để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa dân tộc, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, hướng tới phát triển bền vững. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành di sản văn hóa là nhóm giải pháp mang tính cơ bản, quyết định đối với hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của nước ta trong bối cảnh hiện đại hóa, toàn cầu hóa hiện nay. Để hiện thực hóa nhiệm vụ này, một số nhóm giải pháp bước đầu cho việc nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành Di sản văn hóa về trước mắt, cũng như lâu dài, cần được tập trung giải quyết là:

140

- Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể

Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực nhân lực trong lĩnh vực Di sản văn hóa phi vật thể với những định hướng, lộ trình thực hiện cụ thể nhằm xây dựng được nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng; huy động các nguồn lực phục vụ cho sự phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực Di sản văn hóa phi vật thể. Nội dung của giải pháp cụ thể như sau:

- Tiến hành điều tra khảo sát thực trạng nguồn nhân lực trong lĩnh vực Di sản văn hóa phi vật thể.

- Xây dựng Chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực Di sản văn hóa phi vật thể trong Chiến lược phát triển ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:

+ Xác định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

+ Nghiên cứu dự báo về phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực di sản văn hoá phi vật thể, từ xu thế biến động, định hướng phát triển, cho đến số lượng, cơ cấu trình độ đào tạo; số lượng và các loại hình cơ sở đào tạo, sự phân bố trên phạm vi toàn quốc.

+ Xác định quan điểm phát triển, mục tiêu chiến lược, lộ trình phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực di sản văn hoá phi vật thể trước mắt cũng như về lâu dài.

+ Xây dựng lộ trình khả thi để phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực di sản văn hoá phi vật thể đáp ứng nhu cầu nhân lực cho từng giai đoạn theo dự báo.

+ Xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể để đạt được mục tiêu phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực di sản văn hoá phi vật thể.

- Đổi mới chương trình, nội dung đào tạo kiến thức về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể

Xây dựng nội dung đào tạo và bồi dưỡng các chuyên ngành đào tạo di sản văn hóa tương ứng với tiêu chuẩn chức danh quản lý và tiêu chuẩn chức danh nghiệp vụ lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, là nhiệm vụ cấp thiết trong tình hình hiện nay.

- Trên cơ sở tiêu chuẩn chức danh quản lý, xây dựng và đưa vào áp dụng khung chương trình và nội dung bồi dưỡng kiến thức quản lý di sản văn hóa phi vật thể đối với từng đối tượng:

+ Chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước cho cán bộ lãnh đạo các đơn vị quản lý di sản văn hóa phi vật thể.

+ Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo nghiệp vụ về di sản văn hóa phi vật thể.

- Nghiên cứu biên soạn các tài liệu hướng dẫn áp dụng chương trình, nội dung

141

đào tạo và bồi dưỡng chuyên ngành di sản văn hóa, xuất bản hoặc dịch và xuất bản một số sách, tài liệu chuyên môn về di sản văn hóa phi vật thể:

+ Tài liệu hướng dẫn áp dụng chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng.

+ Xuất bản, dịch và xuất bản một số đầu sách về các lĩnh vực chuyên môn bảo tàng, di tích, di sản văn hóa phi vật thể...

- Tổ chức thực hiện: Cục Di sản văn hóa phối hợp với các cơ sở đào tạo xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng trình lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt, cấp kinh phí; mời các chuyên gia trong nước và quốc tế tham gia thực hiện chương trình nội dung đào tạo, bồi dưỡng đối với từng nghiệp vụ cụ thể.

4.4.3. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong thời gian tới

- Huy động sự hỗ trợ của quốc tế cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể

Trong bối cảnh đất nước đổi mới, phát triển và mở rộng hợp tác quốc tế, việc tổ chức và quản lý có hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cần được quan tâm như một trong các nguồn lực quan trọng. Thông qua các chương trình hợp tác quốc tế, chúng ta không chỉ có điều kiện đẩy mạnh việc giới thiệu, quảng bá văn hóa, đất nước và con người Việt Nam trên trường quốc tế, mà còn tranh thủ được sự giúp đỡ về khoa học, kỹ thuật, tài chính cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở trong nước, đồng thời tạo điều kiện cho công chúng trong nước có cơ hội tiếp xúc/mở rộng hiểu biết về văn hóa/di sản văn hóa/ di sản văn hóa phi vật thể của các nước trên thế giới.

Những năm qua, chúng ta cũng nhận được sự hỗ trợ về mặt chuyên môn của hàng trăm chuyên gia quốc tế. Các chuyên gia đã tới giảng dạy cho đội ngũ cán bộ về kỹ thuật tu bổ di tích, khai quật khảo cổ, trưng bày bảo tàng, bảo quản hiện vật, kiểm kê, tư liệu hóa di sản văn hóa phi vật thể…

Một hình thức khác là hỗ trợ cho các cán bộ quản lý và chuyên môn về di sản văn hóa được đi đào tạo, tập huấn ngắn hạn và trung hạn ở nước ngoài.

Sự hỗ trợ của quốc tế đối với hoạt động bảo tồn di sản văn hóa cũng đang có sự thay đổi về phương thức hỗ trợ. Do sự phát triển kinh tế của Việt Nam, nên hỗ trợ bằng kinh phí đang giảm đi và hỗ trợ bằng chuyên gia để phổ biến kiến thức tăng lên, đây là một xu hướng phù hợp với sự phát triển hiện nay. Điều mà những người làm di sản văn hóa cần nhất chính là những kiến thức, kinh nghiệm về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, do đó, để nhận được nhiều hơn sự hỗ trợ của quốc tế chúng ta cần triển khai các đề nghị hỗ trợ theo hướng này. Các dự án xin từ hỗ trợ cần tạo sự cân bằng giữa thực hành với đào tạo và chỉ có chú trọng đào tạo thì các dự án xin từ hỗ trợ, mới có khả năng được chấp nhận.

142

Tăng cường huy động sự hỗ trợ của quốc tế cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể là một giải pháp có tính khả thi trong bối cảnh hiện nay, khi mà uy tín của Việt Nam ngày càng tăng trên bình diện quốc tế.

- Tiếp tục phê chuẩn Công ước quốc tế về hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể

Một trong những động thái nâng cao vị thế của nước ta, đồng thời đưa nước ta hòa nhập với nhịp đập của thời đại là việc phê chuẩn các Công ước quốc tế. Trong lĩnh vực di sản văn hóa và thiên nhiên, sau khi nước ta phê chuẩn Công ước năm 2003 về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, chúng ta đã có cở sở pháp lý để đề cử di sản phi vật thể của nước ta nhận các danh hiệu quốc tế. Các di sản này sau khi được ghi vào Danh mục di sản thế giới đã được UNESCO bảo hộ dưới nhiều hình thức.

Chính vì thế, chúng ta cần tổ chức tiếp tục nghiên cứu các Công ước quốc tế như Công ước bảo vệ tài sản văn hóa trong trường hợp xung đột vũ trang v.v.. Để thực hiện giải pháp này được tốt, chúng ta cần tổ chức nghiên cứu đánh giá tác động của việc phê chuẩn các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia. Sắp xếp thứ tự ưu tiên phê chuẩn các Công ước phù hợp với yêu cầu thực tế và nguồn lực của đất nước tham gia Công ước sau khi phê chuẩn. Chủ động đóng góp vào các bản dự thảo Công ước như trước đây chúng ta đã tích cực tổ chức các cuộc trao đổi góp ý cho dự thảo Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, Công ước về sự đa dạng của biểu đạt văn hóa, Công ước về bảo vệ di sản văn hóa dưới nước… để nội dung của các Công ước sau khi có hiệu lực tương thích hơn với hoàn cảnh nước ta.

- Tăng cường tham gia các tổ chức quốc tế về hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể

Để nâng cao vị thế của đất nước, tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế, nắm bắt được những sự chuyển biến của tình hình thế giới về di sản văn hóa phi vật thể, bên cạnh việc phê chuẩn các văn bản quốc tế là việc chúng ta phải đầu tư nhân lực và tài chính để tham gia các tổ chức quốc tế. Hiện nay, Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế về di sản văn hóa còn ít, chúng ta chưa tham gia vào Ủy ban di sản thế giới, Hội đồng tư vấn của ICCOM. Ta cũng chưa có nhiều cán bộ/chuyên gia ứng cử vào các chức vụ quan trọng của các cơ quan này như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản ở Đông Á, Thái Lan, Cămpuchia... ở Đông Nam Á.

Để thực hiện tốt giải pháp này, chúng ta cần tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ/chuyên gia đủ năng lực chuyên môn và ngoại ngữ, có kinh nghiệm trong hoạt động quốc tế để thành lập các tổ chức quốc tế của Việt Nam và ứng cử vào các chức danh của các cơ quan quốc tế về di sản văn hóa (có những chức danh như vị trí Tổng giám đốc ICCROM đòi hỏi ít nhất 3 ngoại ngữ: Anh, Pháp, Ý). Cần dành

143

nhưng khoản ngân sách thích hợp để từng bước tham gia vào các tổ chức quốc tế theo đà tăng trưởng của kinh tế đất nước.

- Tích cực tham gia các hoạt động quốc tế

Trong khi còn chưa đủ điều kiện để phê chuẩn đầy đủ các Công ước quốc tế về di sản văn hóa và thiên nhiên, chưa đảm nhiệm các vị trí chủ chốt trong các cơ quan quốc tế về di sản văn hóa và thiên nhiên, chúng ta cần đẩy mạnh các hoạt động quốc tế. Tham gia đầy đủ các phiên họp Ủy ban liên Chính phủ của các Công ước, các hội nghị, hội thảo quốc tế về di sản văn hóa và thiên nhiên. Cử cán bộ tham gia đầy đủ các lớp tập huấn về di sản. Đăng cai tổ chức các hội nghị, hội thảo tập huấn của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Thông qua các diễn đàn này chúng ta nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ, chuyên gia trong ngành, đồng thời giới thiệu cho đồng nghiệp quốc tế về bức tranh hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa và thiên nhiên của nước ta. Muốn thực hiện tốt giải pháp này cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ, chuyên gia nắm vững các hoạt động chuyên môn của ngành ở trong nước và đồng nghiệp trên thế giới để có thể giới thiệu được những hoạt động chuyên ngành mà Việt Nam đang làm và tiếp thu được các kiến thức của bạn bè trên thế giới, vận dụng vào thực tiễn đất nước.

- Tiếp tục đề cử di sản văn hóa phi vật thể thế giới

Việt Nam có di sản văn hóa phong phú, đa dạng của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đã sáng tạo ra nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể suốt từ thời kỳ tiền sử đến nay. Do vậy, số lượng 13 di sản văn hóa phi vật thể được ghi vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, 01 di sản được ghi vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, chưa phải là nhiều (nếu so với các quốc gia như Trung Quốc, Italia, Tây Ban Nha...). Nước ta còn nhiều di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu chưa được phát hiện, kiểm kê, nghiên cứu lập hồ sơ đề cử vào các danh hiệu thế giới. Việc có nhiều di sản văn hóa phi vật thể được mang danh hiệu di sản thế giới vừa nâng cao vị thế của đất nước, vừa phản ánh được những nét văn hóa độc đáo tiêu biểu của Việt Nam trong suốt trường kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước, đồng thời là hình thức quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với thế giới, góp phần phát triển du lịch, tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.

Thực hiện giải pháp này, chúng ta cần nắm vững nội dung các Công ước, các hướng dẫn thực hiện Công ước, các tiêu chí và điều kiện để trở thành di sản thế giới. Tiến hành nghiên cứu lựa chọn các di sản tiêu biểu đáp ứng các tiêu chí di sản thế giới và hội đủ điều kiện di sản thế giới của từng Công ước. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Ngoại giao với các Bộ liên quan đến di sản được đề cử như: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường và địa phương có di sản đề cử trong quá trình tổ chức việc biên soạn hồ sơ đề cử và kế hoạch vận động phù hợp với từng giai đoạn thẩm tra và quyết định

144

các hồ sơ đề cử của UNESCO. Một trong những điều cần lưu ý đối với việc đề cử hồ sơ di sản thế giới ở nước ta là phải nghiêm túc tổ chức thực hiện các cam kết của chính quyền thực hiện đầy đủ Chương trình hành động để bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể sau khi được ghi vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Tránh tình trạng khi đề cử thì cam kết, nhưng sau khi được ghi vào các danh mục di sản thế giới lại lần khân, hoặc không thực hiện cam kết. Một vấn đề nữa liên quan đến hiệu quả của giải pháp này là việc thực hiện các Quyết nghị của Ủy ban Di sản thế giới về tình trạng bảo tồn di sản sau khi di sản được các danh hiệu. Việc triển khai thực hiện chậm, sẽ gây trở ngại cho các đề cử tiếp theo.

- Tiếp tục nghiên cứu soạn thảo văn bản phù hợp với Công ước quốc tế

Việc xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vừa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của Việt Nam, vừa phù hợp với Công ước quốc tế, đã tạo điều kiện cho sự giao lưu quốc tế trong lĩnh vực chuyên ngành phát triển. Hợp tác của ngành Di sản văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế vì thế ngày càng cởi mở hơn. Di sản văn hóa của Việt Nam được giới thiệu ra thế giới nhiều hơn, có chọn lọc phù hợp với yêu cầu của cả hai phía. Bạn bè trên thế giới không chỉ còn biết đến Việt Nam như một đất nước bị chiến tranh tàn phá, họ đã thấy được kho tàng di sản văn hóa của nước ta rất phong phú, đa dạng, cần quan tâm. Quan niệm về bảo vệ và phát huy di sản văn hóa của chúng ta đã thay đổi, rộng mở với bè bạn năm châu. Các văn bản quy phạm pháp luật của chúng ta phù hợp với các quy chuẩn quốc tế còn là cơ sở pháp lý để chúng ta có thể bảo vệ di sản văn hóa của mình một khi các di sản đó bị vi phạm/ứng xử trái với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia.

Để thực hiện tốt giải pháp này bên cạnh việc nhận diện những điểm hạn chế, bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật trong nước, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu hệ thống văn bản quốc tế về di sản văn hóa phi vật thể, đồng thời đánh giá lại hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta điều chỉnh về di sản văn hóa phi vật thể, từ đó kịp thời có những sửa đổi, bổ sung các quy định cho phù hợp không chỉ tương thích cho giai đoạn thực tiễn hiện nay mà nhìn rộng việc sửa đổi, bổ sung phù hợp với bối cảnh thay đổi của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội trong những giai đoạn của quá trình phát triển bền vững đất nước chặng đường dài sau này./.

Xem tất cả 202 trang.

Ngày đăng: 10/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí