CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH CÔNG TY VÀ ĐỊNH GIÁ CỔ PHIẾU
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÂN TÍCH CÔNG TY VÀ ĐỊNH GIÁ CỔ PHIẾU
1. Khái niệm và vai trò của phân tích công ty và định giá cổ phiếu
1.1. Khái niệm
1.1.1.Khái niệm phân tích công ty – company analysis.
Phân tích công ty là quá trình đánh giá một doanh nghiệp một cách tổng thể theo phương pháp top-down bao gồm phân tích bên ngoài bên ngoài doanh nghiệp là môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường ngành và phân tích bên trong doanh nghiệp dựa trên các dữ liệu thu thập được1.
Phân tích công ty bao gồm phân tích định tính và phân tích định lượng. Phân tích công ty nhằm mục đích định giá cổ phiếu (trong đầu tư chứng khoán thì còn được gọi là phân tích tài chính doanh nghiệp hay phân tích cơ bản – fundamental analyis) và phục vụ cho hoạt động quản trị doanh nghiệp, trong đó hoạt động tài chính.
1.1.2. Khái niệm định giá cổ phiếu
Khái niệm: Định giá cổ phiếu là quá trình tính toán và xác định giá trị lý thuyết (hay giá trị nội tại, gián trị thực- intrinsic value) của cổ phiếu dựa trên những phân tích cơ bản ước lượng các dòng tiền trong tương lai và khả năng sinh lời của công ty. Định giá cổ phiếu của công ty để phục vụ cho các mục đích: đưa ra các quyết định mua, bán và nắm giữ cổ phiếu; cổ phần hóa doanh nghiệp; phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúngIPO; mua lại và sáp nhập doanh nghiệp M&A2
Khi nói đến giá cổ phiếu, cần phân biệt giá trị nội tại với các giá trị khác của cổ phiếu bao gồm giá trị nội tại với giá trị thị trường, mệnh giá và giá trị sổ sách. Mệnh giá là giá trị danh nghĩa của cổ phiếu, là số tiền ghi trên tờ cổ phiếu, theo quy định hiện hành của Việt Nam hiện nay, mệnh giá cổ phiếu là 10 000 VND. Mệnh giá cổ phiếu không có giá trị thực tế đối với người đầu tư khi đã đầu tư, và nó không liên quan j đến giá trị thị trường của cổ phiếu đó. Mệnh giá cổ phiếu chỉ có giá trị đối với cty tại thời điểm phát hành, nó thể hiện đc số tiền tối thiểu mà công ty có thể nhận đc từ mỗi cổ phiếu phát hành. Giá trị sổ sách (book value) và giá trị thị trường. Giá trị sổ sách là
Có thể bạn quan tâm!
- Phân tích và định giá cổ phiếu công ty cổ phần đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà - 1
- Phân Tích Định Lượng – Quatitative Analysis
- Phương Pháp Định Giá Cổ Phiếu Theo Tỷ Số P/e (Price-Earnings Ratio)
- Kinh Nghiệm Định Giá Cổ Phiếu Trên Thế Giới Và So Sánh Với Việt Nam.
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
1 http://en.wikipedia.org/wiki/Business_analysis
2 Warrent Buffett sinh ngày 30 tháng 8 năm 1930 tại Omaha, bang Nebraska, Hoa Kỳ là nhà đầu tư thành công nhất thế giới, cổ đông lớn nhất kiêm giám đốc hãng Berkshire Hathaway – một trong những tập đoàn tài chính- bảo hiểm đa quốc gia lớn nhất nước Mỹ và thế giới có lợi suất cổ phiếu lên đến 76% từ 2000-nay, so với 11.3% của lợi suất S&P 500 - và được tạp chí Forbes xếp ở vị trí người giàu thứ hai thế giới sau Bill Gates với tài sản chừng 37 tỉ USD.
giá trị kế toán của một tài sản hoặc một doanh nghiệp. Giá trị sổ sách của tài sản bằng chi phí mua sắm trừ khi phần khấu hao lũy kế của tài sản đó. Giá trị sổ sách của doanh nghiệp bằng giá trị toàn bộ tài sản của doanh nghiệp trừ đi giá trị các khoản nợ phải trả và giá trị cổ phiếu ưu đãi được được ghi trên bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Giá trị thị trường (market value) là giá của tài sản hoặc được giao dịch trên thị trường. Thường thì giá trị trường của tài sản hoặc doanh nghiệp thường cao hơn giá trị kế toán.
Về giá trị lý thuyết và giá trị thị trường, cặp giá trị này thường được dùng để chỉ giá tri của các chứng khoán. Giá trị thị trường của một chứng khoán là giá trị của chứng khoán đó khi được giao dịch trên thị trường chứng khoán. Giá trị lý thuyết (giá trị nội tại) là giá trị của chứng khoán đó được xác định bằng các phương pháp định giá chứng khoán theo các lý thuyết về định giá chứng khoán. Trong một thị trường hiệu quả thì giá trị thị trường của chứng khoán phản ánh đúng hoặc gần đúng giá trị nội tại của nó.
Khi nhắc đến giá trị thị trường và giá trị nội tại của cổ phiếu, người ta thường mua vào khi giá trị thị trường thấp hơn giá trị thực của nó (undervalued) với kì vọng giá cổ phiếu sẽ lên và bán ra khi giá trị thị trường thấp hơn giá thị nội tại của nó (overvalued) với kì vọng giá cổ phiếu sẽ giảm.
Khi định giá cổ phiếu cần tuân theo hai nguyên tắc. Nguyên tắc thứ nhất là giá trị thời gian của tiền tệ: Giá trị tiền theo thời gian, trên cơ sở toán học, là số tiền nhận được hôm nay có giá trị hơn số tiền nhận được vài tháng hoặc vài năm sau với cùng số lượng. Vì thế, khi định giá cổ phiếu luôn phải chiết khấu các dòng tiền trong tương lai về hiện tại. Nguyên tắc thứ hai là mối quan hệ giữa lợi suất và rủi ro. Trong tài chính, lợi suất và rủi ro có mối quan hệ ngược nhau. Công ty càng rủi ro cao thì lợi suất yêu cầu phải cao và ngược lại.
1.2. Vai trò
1.2.1. Vai trò của phân tích công ty:
Đối với hoạt động quản trị doanh nghiệp nói chung, phân tích công ty là công cụ đắc lực trong quá trình lập kế hoạch, quản lý và đưa ra quyết định của các nhà quản trị doanh nghiệp một cách hiệu quả. Các kết quả phân tích công ty sẽ cung cấp một cái nhìn chuyên sâu về từng mảng, từng bộ phận hoạt động của công ty. Đối với hoạt động tài chính nói riêng, các kết quả phân tích công ty về tình hình hoạt động tài chính (phân tích định lượng) giúp đánh giá được hiệu quả hoạt động tài chính, khả năng sinh lời và
khả năng tăng trưởng của công ty và là công cụ dự báo tài chính bao gồm dự báo dòng tiền, dự báo doanh thu, dự báo lợi nhuận.
Đối với các cổ đông, nhờ các kết quả phân tích công ty các cổ đông có thể đánh giá được hiệu quả hoạt động của công ty và định giá được khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn bỏ ra. Từ đó có thể đưa ra các quyết định tăng thêm vốn góp, chuyển nhượng vốn hay rút vốn khỏi doanh nghiệp.
Đối với các định chế tài chính trong đó có ngân hàng, phân tích công ty là công cụ để đánh giá rủi ro tín dụng. Đây chính là ứng dụng của phân tích công ty trong phân tích tín dụng bao gồm 5C: phẩm chất (character), năng lực (capacity), điều kiện (condition), thế chấp (collateral) và vốn (capital). Từ đó đưa ra các quyết định về cấp tín dụng đồng thời gián tiếp giám sát quá trình sử dụng vốn vay của doanh nghiệp.
Đối với các đối tác trong đó có nhà cung cấp, các kết quả phân tích công ty sẽ cung cấp những thông tin về uy tín về triển vọng của công ty và khả năng thanh khoản các khoản nợ ngắn hạn, từ đó đưa ra các chính sách bán chịu, chiết khấu hay giảm giá.
Đối với các nhà phân tích và tư vấn tài chính, phân tích công ty sẽ giúp họ tư vấn các nhà đầu tư là các khách hàng của mình trong việc mua, bán, nắm giữ cổ phiếu.
Đối với nhà đầu tư, phân tích công ty là kim chỉ nam để lựa chọn đầu tư cổ phiếu trong đầu tư chứng khoán. Một nhà đầu tư thông minh thường không chỉ quan tâm đến phân tích kĩ thuật mà còn chủ yếu dựa vào phân tích cơ bản. Phân tích cơ bản nhằm tính toán về đánh giá triển vọng tăng trưởng, thị trường, doanh số, các chỉ số tài chính, tình hình pháp lý và hệ thống quản trị của doanh nghiệp và triển vọng của ngành hoạt động, của nền kinh tế quốc dân nhằm tìm ra các doanh nghiệp xứng đáng để đầu tư. Nhà đầu tư phải tìm hiểu về công ty trước khi có quyết định đầu tư. Hơn nữa, nếu chỉ dựa vào phân tích kĩ thuật và bỏ qua phân tích cơ bản mà vẫn tiến hành đầu tư quả là rất nguy hiểm.
Đối với chính phủ và các cơ quan nhà nước, các phân tích công ty sẽ giúp họ đưa ra quyết định về phân bổ ngân sách, cấp vốn, quốc hữu hóa hoặc phục vụ mục đích thống kê về tình hình kinh tế.
1.2.2. Vai trò của định giá cổ phiếu
Thứ nhất, định giá cổ phiếu là công cụ giúp nhà đầu tư đưa ra được quyết định đầu tư đúng đắn. Khi xác định giá cổ phiếu, người ta xác định giá trị thực của nó. Khi giá cổ phiếu trên thị trường thấp hơn giá trị thực, nhà đầu tư sẽ quyết định mua vào. Ngược lại, khi giá cổ phiếu lên cao hơn mức giá trị thực của nó, nhà đầu tư sẽ quyết
định bán ra hoặc nắm giữ cổ phiếu dài hạn để hưởng cổ tức. Thị trường càng hiệu quả, giá cổ phiếu giao dịch trên thị trường sẽ càng gần với mức giá mà nó đã được xác định bằng các phương pháp định giá chính xác nhất.
Thứ hai, định giá cổ phiếu giúp các nhà quản trị doanh nghiệp xác định được giá trị doanh nghiệp mình từ đó đề ra các giải pháp nâng cao giá trị doanh nghiệp. Giá trị nội tại của cổ phiếu cao thường cho thấy công ty đó là một công ty tốt, có triển vọng và đáng để đầu tư dài hạn. Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp, nhìn vào giá trị nội tại của cổ phiếu để thấy được doanh nghiệp mình đang hoạt động tốt đến đâu và ở vị trí nào khi so sánh với các doanh nghiệp khác trong ngành. Từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động và chiến lược cạnh tranh thích hợp.
Thứ ba, định giá cổ phiếu sẽ đưa ra mức giá trị thực để đề xuất đấu giá cổ phần hay giá chào bán chứng khoán ra công chúng của công ty cổ phần. Từ đó xác định được số cổ phần được chia cho các cổ đông. Chẳng hạn, ở Việt Nam, trường hợp cổ phần hóa Vietcombank, Habeco và Sabeco, nhà nước đã đặt mức giá quá cao cho các cổ phiếu này khi phát hành lần đầu ra công chúng. Với mức giá quá cao so với giá trị thực như vậy nên đã không kêu gọi đủ số người tham gia mua cổ phần. Do đó, không huy động được đủ số vốn cổ phần mà các công ty này cần.
1. 3. Mối quan hệ giữa phân tích công ty và định giá cổ phiếu
Phân tích công ty là nền tảng để định giá cổ phiếu. Theo Warrant Buffet3, quy trình phân tích cơ bản nhằm định giá cổ phiếu bao gồm 3 bước: Phân tích vĩ mô, phân tích ngành và phân tích công ty. Phân tích công ty cung cấp các dữ liệu phục vụ cho việc định giá cổ phiếu. Phân tích công ty sẽ cho các số liệu về thu nhập trong tương lai của công ty, chi phí vốn bình quân WACC (hay tỷ suất chiết khấu), khả năng sinh lời, dự báo dòng tiền, kế hoạch cổ cổ tức, lợi nhuận….. để xác định giá trị thực của cổ phiếu một cách chính xác nhất.
Định giá cổ phiếu là sự lượng hóa bằng con số, là kết quả của phân tích công ty. Giá trị thực của cổ phiếu phản ánh các yếu tố tài chính, kinh tế và các yếu tố định tính cũng như định lượng khác của công ty và môi trường vĩ mô. Bằng phương pháp đính giá chính xác nhất, giá trị thực của cổ phiếu sẽ phản đúng giá trị của công ty thể hiện trong kết quả phân tích về công ty đó.
2. Phương pháp phân tích công ty và định giá cổ phiếu
2.1. Phân tích định tính (qualitative analysis)
2.1.1. Phân tích môi trường kinh tế vĩ mô PESTEL
Trước hết, khi phân tích một công ty cần phải đặt nó trong mối quan hệ với môi trường kinh tế vĩ mô. Doanh nghiệp là một hệ thống mở và nó tồn tại trong mối quan hệ với môi trường kinh tế vĩ mô. Chu kì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp biến động theo chu kì của nền kinh tế quốc gia và thế giới. Dù ít hay nhiều, doanh nghiệp đều chịu sự chi phối và những tác động của môi trường kinh tế vĩ mô và các chính sách của chính phủ. Phân tích PESTEL là phân tích tổng hợp các yếu tố mà tác động đến công ty bao gồm: Chính trị - Kinh tế - Xã hội - Công nghệ - Môi trường tự nhiên - Pháp lý.
a. Môi trường chính trị (potical environment):
Một môi trường chính trị là yếu tố đầu tiên quyết định đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Thay đổi chính trị sẽ dẫn đến thay đổi các chính sách kinh tế và các chính sách về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Trên phạm vi một quốc gia, một môi trường chính trị ổn định và hòa bình, không có tranh chấp, nội chiến hay bất ổn thì mọi hoạt động kinh tế mới được đảm bảo. Trên bình diện quốc tế, một mối quan hệ chính trị - ngoại giao tốt giữa các chính phủ thì doanh nghiệp trong quốc gia đó sẽ được hưởng lợi từ những chính sách ngoại giao đó bao gồm các hiệp định, các cam kết thương mại song phương hoặc đa phương, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, xuất nhập khẩu hay tín dụng quốc tế…. giữa các chính phủ.
b. Môi trường kinh tế (Economic environment).
Thứ nhất là môi trường kinh tế trong nước. Môi trường kinh tế trong chi phối đến hoạt động của doanh nghiệp thông qua hàng loạt các chỉ báo kinh tế vĩ mô. Trước hết, sự tăng giảm thu nhập GDP làm tăng hay giảm nhu cầu về hàng hóa đối với doanh nghiệp Khi kinh tế tăng trưởng, doanh nghiệp sẽ tập trung vào các kế hoạch mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tăng doanh số hay chú trọng đến nhu cầu của người tiêu dùng. Ngược lại, khi kinh tế suy thoái, doanh nghiệp tập trung vào các kế hoạch cắt giảm chi phí, quy mô hoạt động, để sinh tồn. Lạm phát làm tăng chi phí đầu vào. Lãi suất tác động đến chi phí vốn vay. Sự biến động của tỷ giá hối đoái tác động đến chi phí nhập khẩu, doanh thu từ xuất khẩu. Tiếp theo là các chính sách thuế của chính phủ. Thuế thu nhập doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận ròng.
Thứ hai là môi trường kinh tế quốc tế. Đặc điểm của thị trường nước ngoài quyết định đến nhu cầu về hàng hóa xuất khẩu (đối với doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa),
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (xuất khẩu vốn) đồng thời tác động đến nguồn cung cấp các đầu vào như công nghệ, vốn (các doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ, vốn từ nước ngoài). Bên cạnh đó, toàn cầu hóa và sự hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho doanh nghiệp cả cơ hội (mở rộng thị trường, tiếp thu vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý…) lẫn thách thức (áp lực cạnh tranh, nguy cơ tụt hậu….).
c. Môi trường văn hóa-xã hội (Socio-cultural Environment):
Thứ nhất là môi trường xã hội và nhân khẩu học. Về dân số, tốc độ tăng trưởng dân số càng cao sẽ là nguồn cung ứng lao động dồi dào cho doanh nghiệp, chi phí nhân công sẽ thấp hơn, đồng thời tăng dân số sẽ tăng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm của doanh nghiệp. Về địa lý, mỗi khu vực địa lý có đặc điểm khí hậu, địa hình khác nhau thì lĩnh vực ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp cũng phải thích ứng với mỗi khu vực đó. Về cấu trúc xã hội, mỗi một xã hội đều phân chia thành những tầng lớp, giai cấp và nhóm người khác nhau. Mỗi tầng lớp, giai cấp và nhóm người sẽ có những đặc trưng về tâm lý tiêu dùng và nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ cũng khác nhau tương ứng với các phân đoạn thị trường khác với các dòng sản phẩm hay loại hình dịch vụ khác nhau. Bên cạnh đó, thu nhập trung bình của người dân, số người có việc làm càng cao thì càng thúc đẩy tiêu thụ hàng, đòi hỏi về chất lượng sản phẩm, dịch vụ càng khắt khe. Từ đó, doanh nghiệp biết cách đổi mới, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Một ví dụ điển hình là ở Đức trong giai đoạn hiện nay có rất nhiều người có thu nhập cao, điều kiện sống tốt, có khả năng trình độ và làm tại những vị trí ổn định của xã hội nhưng họ thích sống độc thân, không muốn phải có trách nhiệm về gia đình, công việc sinh con đẻ cái.... Những yếu tố này giúp các công ty ở Mỹ nảy sinh các dịch vụ, hàng hóa cho người độc thân.
Thứ hai, là môi trường văn hóa. Văn hóa bao gồm tín ngưỡng và các giá trị, phong tục, tập quán, các nghi lễ và nghệ thuật. Văn hóa quyết định thị hiếu và phong cách của người tiêu dùng, do đó buộc doanh nghiệp phải tạo ra những sản phẩm hoặc dịch vụ phù hợp với văn hóa của họ, nếu không sản phẩm của doanh nghiệp sẽ bị họ đào thải.
d. Môi trường công nghệ (Technological environment):
Sự phát triển công nghệ được coi là cuộc cách mạng vĩ đại của loài người và có ảnh hưởng to lớn đến tổng thể nền kinh tế và bản thân doanh nghiệp. Trên phương diện nền kinh tế nói chung, công nghệ có tác động làm tăng năng suất, giảm chi phí và tạo ra nhiều sản phẩm mới ưu việt hơn. Trên phương diện doanh nghiệp nói riêng, công
nghệ giúp cải tiến và hiện đại hóa cách thức sản xuất (áp dụng tự động hóa vào sản xuất,…); cải tiến phương thức phân phối và lưu thông hàng hóa giúp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp (nhờ công nghệ, bán hàng trực tuyến ra đời tiện lợi và ít tốn kém hơn bán hàng qua các kênh phân phối thông thường như qua đại lý hay môi giới); cải tiến phương thức quản lý, điều hành doanh nghiệp. Sự ra đời của công nghệ thông tin cho phép giao dịch từ xa, làm việc tại nhà, dùng máy tính để thay thế cho con người, tinh vi hơn, hiện đại hơn, tiết kiệm thời gian hơn; giúp tạo ra được nguồn lực con người có trình độ và kĩ năng cao hơn, lành nghề là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại của công ty
e. Môi trường tự nhiên (Environmental protection)
Thứ nhất, môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Môi trường tự nhiên tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bằng việc cung cấp nguyên liệu đầu vào dồi dào, đó là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô giá: tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng. Ngược lại, môi trường tự nhiên cũng có thể gây ra những thảm họa cho con người nói chung và doanh nghiệp nói riêng: thiên tai, lũ lụt, động đất,… Hậu quả của những thảm họa này các nhà máy, công xưởng bị tàn phá, hoạt động sản xuất kinh doanh bị gián đoạn. Thêm vào đó là nguy cơ đe dọa từ các nguồn tài nguyên không tái sinh khiến doanh nghiệp phải bỏ chi phí tìm ra các nguồn nguyên liệu đầu vào thay thế khác.
Thứ hai, vấn đề bảo vệ môi trường tạo sức ép không nhỏ đến doanh nghiệp. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên của doanh nghiệp chịu dự điều chỉnh của các luật liên quan về môi trường và ô nhiễm môi trường. Doanh nghiệp có thể phải đóng nhiều loại thuế hoặc phí liên quan đến tài nguyên và môi trường và xây dựng hệ thống xử lý chất thải nếu thực thi các dự án có ảnh hưởng đến môi trường, vì thế có thể doanh nghiệp sẽ quyết định không tiến hành dự án vì chi phí quá cao, làm giảm dòng tiền (chi phí rác thải thường là 5-10% tổng doanh thu của dự án). Dưới sức ép của người tiêu dùng, sản phẩm của doanh nghiệp phải đảm bảo thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xử lý vấn đề bảo vệ môi trường không tốt có thể sẽ phải chịu chi phí vốn yêu cầu từ phía các chủ sở hữu sẽ cao vì phải bù đắp cho các rủi ro này.
f. Môi trường pháp lý (Legal Environment).
Trước hết, môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp trên phương diện các nguồn luật chung. Luật Doanh Nghiệp điều chỉnh thành lập doanh nghiệp, lĩnh vực ngành nghề kinh doanh, hình thức sở hữu, hoạt động phá sản, mua lại, sáp nhập, chia tách doanh nghiệp.... Luật thương mại điều chỉnh các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và xúc tiến thương mại của doanh nghiệp. Luật sở hữu trí tuệ điều chỉnh các hoạt động liên quan đến bản quyền, bằng sáng chế, phát minh, mô hình kinh doanh, bí quyết công nghệ,…. Luật lao động quy định về lương thưởng, bảo hiểm, trợ cấp, tuyển dụng, chế độ hưu trí, xa thải người lao động,…chi phối đến tình hình nhân sự của doanh nghiệp. Luật cạnh tranh bảo vệ quyền kinh doanh chính đáng của các doanh nghiệp, chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Quan trọng hơn, các nguồn luật riêng điều chỉnh lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn, các doanh nghiệp là các ngân hàng chịu sự điều chỉnh của luật các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp là công ty bảo hiểm chịu sự điều chỉnh của luật kinh doanh bảo hiểm. Doanh nghiệp thuộc ngành bất động sản chịu sự điều chỉnh của luật kinh doanh bất động sản,….
Tuy nhiên, dù là luật chung hay luật riêng thì một môi trường pháp luật tốt thì phải vừa thông thoáng và vừa chặt chẽ thì mới duy trì ổn định hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thoáng để khuyến khích doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh. Chặt chẽ để doanh nghiệp không thể lách luật, vi phạm pháp luật để tránh gây ra những tổn hại về mặt tài chính cũng như uy tín của doanh nghiệp.
2.1.2. Phân tích ngành (mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Michael Porter)
Một trong những mô hình phổ biến nhất trong phân tích ngành là mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Micheal Porter4. Mô hình Porter’s Five Forces được xuất bản lần đầu trên tạp chí Harvard Business Review năm 1979 với nội dung tìm hiểu yếu tố tạo ra lợi nhuận trong kinh doanh. Mô hình này, thường được gọi là “Năm lực lượng của Porter”, được xem là công cụ hữu dụng để tìm hiểu nguồn gốc lợi nhuận. Quan trọng
hơn cả, mô hình này cung cấp các chiến lược cạnh tranh để doanh nghiệp duy trì hay tăng lợi nhuận. Các doanh nghiệp thường sử dụng mô hình này để phân tích xem họ có nên gia nhập một thị trường nào đó, hoặc hoạt động trong một thị trường nào đó không.
4 Michael Eugene Porter, giáo sư đại học Bishop William Lawrence của trường kinh doanh Harvard, là tác giả dẫn đầu các lý thuyết về chiến lược và cạnh tranh được thế giới công nhận và ứng dụng rộng rãi.