- Dạng so sánh: Phương pháp so sánh được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau, khi các chỉ tiêu phân tích thể hiện so sánh bằng số tuyệt đối - đây là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế kết quả so sánh biểu hiện cho sự biến động về khối lượng, quy mô của các hiện tượng kinh tế; còn nếu các chỉ tiêu phân tích có thể thực hiện so sánh bằng số tương đối - là kết quả của phép chia, giữa trị số của kỳ phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế để thấy kết cấu, mối quan hệ, tốc độ phát triển, mức độ phổ biến của các hiện tượng kinh tế; hoặc các chỉ tiêu phân tích còn được thực hiện so sánh bằng số bình quân sẽ là dạng đặc biệt của số tuyệt đối nhằm phản ánh đặc điểm chung của một đơn vị, một bộ phận hay một tổng thể chung có cùng một tính chất.
Ngoài ra, các nhà phân tích còn tiến hành so sánh theo chiều dọc - là quá trình so sánh nhằm xác định tỷ lệ quan hệ tương quan giữa các chỉ tiêu từng kỳ; so sánh theo chiều ngang - là quá trình so sánh nhằm xác định các tỷ lệ và chiều hướng biến động giữa các kỳ trên báo cáo kế toán - tài chính.
Phương pháp so sánh được sử dụng để xác định xu hướng và tính liên hệ của các chỉ tiêu thì các chỉ tiêu riêng biệt hay các chỉ tiêu tổng cộng trên báo cáo tài chính được xem xét trong mối quan hệ với các chỉ tiêu phản ánh quy mô chung, và chúng có thể được xem xét qua nhiều kỳ (từ 3 đến 5 năm hoặc lâu hơn) để cho thấy rõ xu hướng phát triển của các hiện tượng nghiên cứu.
Phương pháp so sánh đơn giản và dễ thực hiện, song khi sử dụng phương pháp này trong quá trình phân tích thì các nhà quản lý chỉ mới dừng lại ở trạng thái biến đổi tăng lên hay giảm xuống của các chỉ tiêu. Khi đi sâu tìm hiểu bản chất bên trong của quá trình tăng giảm đó thì phương pháp này vẫn chưa làm rõ được, hay nói cách khác, nhiệm vụ chỉ ra nguyên nhân và là cơ sở đề ra giải pháp của quá trình phân tích thông qua phương pháp này vẫn chưa được hoàn thành.
1.2.2.2.Phương pháp chi tiết
Mọi quá trình và kết quả kinh doanh đều có thể chi tiết theo nhiều hướng khác nhau nhằm mục đích đánh giá chính xác kết quả đạt được cũng như các giải pháp quản lý đã áp dụng. Phương pháp chi tiết được áp dụng dựa trên đặc điểm của những yếu tố cấu thành nên đối tượng nghiên cứu, khi đối tượng phân tích được chi tiết hóa càng cao thì tính chính xác của kết quả phân tích càng tốt. Mỗi một đối tượng phân tích kinh doanh đều được chi tiết theo nhiều hướng khác nhau, chẳng hạn:
- Chi tiết theo các bộ phận cấu thành của chỉ tiêu: Việc nghiên cứu này sẽ giúp cho chúng ta biết chỉ tiêu phân tích được cấu thành từ những yếu tố nào, đóng góp của từng yếu tố đến kết quả chung ra sao, từ đó biện pháp đưa ra mới có tính chất sát thực;
- Chi tiết theo thời gian: Kết quả kinh doanh bao giờ cũng là kết quả của một quá trình kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định. Trong từng khoảng thời gian khác nhau, doanh nghiệp áp dụng các giải pháp khác nhau và kết quả đem lại của từng giải pháp cũng không giống nhau. Việc phân tích chi tiết này giúp ta đánh giá chính xác và đúng đắn kết quả kinh doanh, từ đó lựa chọn được giải pháp hữu hiệu trong từng khoảng thời gian;
Có thể bạn quan tâm!
- Phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam - 2
- Mối Quan Hệ Giữa Hiệu Quả Kinh Doanh Với Các Yếu Tố Của Quá Trình Sản Xuất
- Phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam - 4
- Phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp khai thác khoáng sản Việt Nam - 6
- Mức Độ Ô Nhiễm Môi Trường Của Ngành Công Nghiệp Khai Thác Khoáng Sản Việt Nam
- Hệ Thống Chỉ Tiêu Hiệu Quả Kinh Doanh Của Doanh Nghiệp.
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
- Chi tiết theo địa điểm và phạm vi kinh doanh: Kết quả hoạt động kinh doanh do nhiều bộ phận, theo phạm vi và địa điểm phát sinh khác nhau tạo nên. Khi chi tiết nội dung nghiên cứu theo khuynh hướng này, nhà quản lý sẽ khai thác các mặt mạnh cũng như khắc phục các mặt yếu kém trong từng bộ phận và phạm vi hoạt động khác nhau.
1.2.2.3. Phương pháp loại trừ
Có khá nhiều phương pháp khác nhau phục vụ cho quá trình phân tích hiệu quả kinh doanh, trong đó phương pháp loại trừ được sử dụng khá phổ biến khi xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến đối tượng phân tích. Theo phương pháp này, để nghiên cứu ảnh hưởng của một nhân tố nào đó phải loại trừ
ảnh hưởng của các nhân tố còn lại bằng cách đặt đối tượng phân tích vào các trường hợp giả định khác nhau để xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu nghiên cứu. Trong thực tế, phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích dưới hai dạng, nó được gọi là phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch. Để sử dụng phương pháp loại trừ trong phân tích hiệu quả kinh doanh cần quán triệt những yêu cầu sau đây:
- Đối tượng phân tích phải thiết lập được mối quan hệ toán học giữa các nhân tố với chỉ tiêu phân tích;
-Các nhân tố sắp xếp trong phương trình phải theo trình tự từ “số lượng” đến “chất lượng”. Trong đó, nhân tố số lượng nói lên quy mô hoạt động nên còn gọi là nhân tố quy mô, nhân tố chất lượng nói lên hiệu suất hoạt động nên gọi là nhân tố hiệu suất.
- Khi xác định mức độ ảnh hưởng cụ thể của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích, ta thay thế nhân tố ở kỳ phân tích đó vào nhân tố kỳ gốc, cố định các nhân tố khác rồi tính lại kết quả của chỉ tiêu phân tích. Sau đó, đem kết quả này so sánh với kết quả của chỉ tiêu ở bước liền trước, chênh lệch này là ảnh hưởng của nhân tố vừa thay thế;
- Trình tự xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố được thực hiện bằng cách lần lượt thay thế các nhân tố theo quy định đã sắp xếp (khi thay thế nhân tố số lượng thì phải cố định nhân tố chất lượng ở kỳ gốc, và ngược lại khi thay thế nhân tố chất lượng thì phải cố định nhân tố số lượng ở kỳ phân tích);
- Cuối cùng, tổng đại số các nhân tố ảnh hưởng phải bằng chênh lệch giữa chỉ tiêu kỳ phân tích và kỳ gốc của đối tượng phân tích.
Giả sử gọi Q là chỉ tiêu phân tích, và a, b, c là các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích.
Đặt Q1 là chỉ tiêu kỳ phân tích thì Q1 = a1 . b1 . c1 (1.1) và Q0 chỉ tiêu kỳ kế hoạch Q0 = a0 . b0 . c0 (1.2)
Vậy Q = Q1 - Q0 (chênh lệch giữa kết quả thực hiện so với chỉ tiêu kế hoạch) (1.3)
23
Thực hiện phương pháp thay thế liên hoàn để xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến đối tượng phân tích như sau:
Thay thế bước 1: xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố a:
a = a1 . b0 . c0 - a0 . b0 . c0 (1.3.1)
Thay thế bước 2: xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố b:
b = a1 . b1 . c0 – a1 . b0 . c0 (1.3.2)
Thay thế bước 3: xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố c:
c = a1 . b1 . c1 – a1 . b1 . c0 (1.3.3)
Phương pháp thay thế liên hoàn có ưu điểm là đơn giản, dễ hiểu dễ tính toán, chỉ rõ mức độ ảnh hưởng của các nhân tố do đó phản ánh được nội dung bên trong của hiện tượng kinh tế. Tuy nhiên, khi xác định ảnh hưởng của nhân tố này thì phải giả định nhân tố khác không đổi, nhưng trên thực tế có trường hợp các nhân tố khác cũng thay đổi cho nên độ tin cậy của chỉ tiêu được lượng hóa là không đảm bảo tính chính xác hoàn toàn. Đồng thời, việc xác định nhân tố nào phản ánh về mặt số lượng hay chất lượng là vấn đề không đơn giản, nếu phân biệt sai thì trình tự sắp xếp và kết quả tính toán của các nhân tố sẽ dẫn đến kết quả sai liên hoàn.
Tiếp theo là phương pháp chênh lệch, chỉ được sử dụng khi các nhân tố ảnh hưởng thể hiện mối quan hệ tích số với chỉ tiêu phân tích trên phương trình kinh tế. (được xem là hình thức rút gọn của phương pháp thay thế liên hoàn). Về nguyên tắc, nó tôn trọng đầy đủ các bước tiến hành như phương pháp thay thế liên hoàn nhưng chỉ khác ở chỗ chỉ rõ mức độ chênh lệch giữa kỳ phân tích với kỳ gốc của từng nhân tố để xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó đến chỉ tiêu phân tích. Cũng sử dụng những giả thiết ở trên, phương pháp này được thực hiện như sau:
Q = Q1 - Q0 (chênh lệch giữa kết quả thực hiện so với chỉ tiêu kế hoạch) (1.4) Thay thế bước 1: xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố a:
a = ( a1 - a0 ). b0 . c0 (1.4.1)
Thay thế bước 2: xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố b:
b = a1 . (b1 - b0 ). c0 (1.4.2)
Thay thế bước 3: xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố c:
c = a1 . b1 . (c1 - c0) (1.4.3)
Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của các nhân tố:
Q = a1 . b1 . c1 - a0 . b0 . c0 (1.5)
Nếu các nhân tố có quan hệ tích số đến đối tượng phân tích, thì việc sử dụng phương pháp chênh lệch cho quá trình phân tích không những sẽ tiết kiệm thời gian hơn mà còn đảm bảo mức độ chi tiết hóa của quá trình phân tích là tốt hơn so với phương pháp thay thế liên hoàn.
1.2.2.4. Phương pháp liên hệ cân đối
Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hình thành nhiều mối quan hệ cân đối về lượng giữa hai mặt của các yếu tố và quá trình kinh doanh như: Quan hệ cân đối giữa tổng số tài sản và tổng số nguồn hình thành tài sản; giữa thu, chi và kết quả; giữa số dư đầu kỳ và số phát sinh tăng trong kỳ với số dư cuối kỳ và số phát sinh giảm trong kỳ của các đối tượng; v.v… Để áp dụng phương pháp liên hệ cân đối, chúng ta thường lập bảng số liệu theo tính cân đối của hiện tượng kinh tế cần phân tích, có thể kết hợp thêm các phương pháp phân tích khác như phương pháp chi tiết, phương pháp so sánh,v.v... Bảng cân đối gồm hai hệ thống chỉ tiêu có quan hệ trực tiếp với nhau về mặt nội dung và được trình bày dưới dạng một biểu thức kinh tế nhất định. Nếu có sự thay đổi của một thành phần trong hệ thống chỉ tiêu đó sẽ dẫn đến sự thay đổi của một hay một số thành phần khác có liên quan và việc quy định trật tự sắp xếp của các nhân tố ảnh hưởng đến đối tượng nghiên cứu là điều không cần thiết.
Phương pháp liên hệ cân đối là phương pháp mô tả và phân tích các hiện tượng kinh tế khi mà giữa chúng tồn tại mối quan hệ cân bằng, có thể nói rằng mối liên hệ cân đối dựa trên cơ sở là cân bằng về lượng giữa hai mặt của các yếu tố và quá trình sản xuất kinh doanh. Dựa vào các mối quan hệ cân đối này, nhà
phân tích sẽ xác định được ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích.
1.2.2.5. Phương pháp kết hợp
Phương pháp này cũng là một trong những phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích hoạt động kinh doanh nói chung và phân tích hiệu quả kinh doanh nói riêng. Sở dĩ phương pháp kết hợp có tên gọi như vậy là do trong quá trình nghiên cứu đối tượng của mình, các nhà phân tích phải sử dụng kết hợp một số phương pháp phân tích với nhau. Chẳng hạn, kết hợp phương pháp so sánh với phương pháp đồ thị, kết hợp phương pháp loại trừ với phương pháp so sánh, kết hợp phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích với mô hình toán,v.v… Động tác này là cần thiết vì đối tượng phân tích rất đa dạng, phong phú nên mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích không phải bao giờ cũng theo một hướng hay cùng một loại. Hơn nữa, nếu không sử dụng kết hợp nhiều phương pháp phân tích với nhau sẽ khó làm nổi bật đặc trưng của đối tượng phân tích. Cần chú ý bảo đảm các điều kiện mà bản thân của từng phương pháp cụ thể yêu cầu như điều kiện so sánh, trật tự sắp xếp các nhân tố, mối quan hệ giữa các nhân tố với chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích,v.v… khi sử dụng phương pháp này.
Ngoài các phương pháp được trình bày trên đây, phân tích hiệu quả kinh doanh vẫn có thể sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp đại số, phương pháp đồ thị, phương pháp toán kinh tế,… để phân tích về đối tượng nghiên cứu của mình.
1.2.3. Chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp
Hiệu quả kinh doanh thể hiện đặc trưng ở mối quan hệ đa dạng giữa lượng kết quả thu được, hay lượng chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Tuỳ theo thành phần của các yếu tố kết quả hay chi phí bỏ ra; hoặc tuỳ theo mối quan hệ giữa kết quả và chi phí ta có các chỉ tiêu hiệu quả khác nhau [46]. Để đánh giá chính
26
xác cơ sở khoa học hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhà phân tích nên căn cứ vào đặc thù về loại hình kinh doanh của mình. Dựa vào đó, mỗi doanh nghiệp sẽ xây dựng một hệ thống chỉ tiêu phù hợp bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp (tổng quát) và các chỉ tiêu chi tiết (cụ thể), các chỉ tiêu đó phản ánh được sức sản xuất, suất hao phí cũng như sức sinh lợi của các yếu tố, của từng loại vốn và phải thống nhất với công thức đánh giá hiệu quả chung.
1.2.3.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu
Qua việc nghiên cứu về khái niệm về hiệu quả kinh doanh cũng như nội dung và phương pháp phân tích hiệu quả kinh doanh, chúng tôi cho rằng, để đảm bảo tính chính xác, tổng quát, đầy đủ,… trong kết luận của quá trình phân tích, khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu sử dụng phân tích hiệu quả của doanh nghiệp cần quán triệt những nguyên tắc sau:
- Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh phải được xác định ở dạng thương số giữa kết quả đạt được với chi phí, hay chi phí với kết quả;
Mỗi cách so sánh đều cung cấp những thông tin có ý nghĩa khác hẳn nhau. Trên thực tế, phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đã là sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra, song để phản ánh kết quả kinh doanh thì lại có thể sử dụng nhiều loại chỉ tiêu khác nhau - có chỉ tiêu phản ánh kết quả ban đầu (chưa tính đến chi phí bỏ ra) và có chỉ tiêu lại phản ánh kết quả cuối cùng (đã tính đến các khoản chi phí). Đặc biệt không thể tính hiệu quả bằng cách lấy kết quả trừ chi phí vì nó cũng sẽ chỉ ra một chỉ tiêu kết quả khác chứ không phải là chỉ tiêu hiệu quả. Khi chỉ tiêu phân tích thực hiện theo nguyên tắc này mới cho thấy mối quan hệ ràng buộc giữa đầu vào và đầu ra.
- Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh vừa phản ánh một cách tổng quát, vừa phản ánh một cách chi tiết;
Chẳng hạn, để hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường thì hầu như doanh nghiệp nào cũng phải trang bị đầy đủ các loại tài sản theo một cơ cấu nhất định nào đó, và phải tính hiệu quả sử dụng chung cho toàn bộ tài sản. Mặt
27
khác, cơ cấu tài sản cụ thể của từng doanh nghiệp lại không đồng nhất, tính chất của từng loại tài sản cũng rất khác nhau và quan hệ của từng loại tài sản với các chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh cũng không giống nhau, do đó việc tính riêng hiệu quả của từng loại tài sản là tất yếu.
- Chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh phải bao gồm hai phân hệ phản ánh về mặt định lượng và định tính, hoặc kết hợp đồng thời cả hai phân hệ này;
Chỉ tiêu hiệu quả được tính theo kết quả ban đầu thì vẫn mang tính chất là một chỉ tiêu định lượng. Bởi lẽ, nếu kết quả ban đầu bằng nhau nhưng chi phí khác nhau thì kết quả cuối cùng sẽ khác nhau. Do đó, chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh nếu hòa trộn được sắc thái định tính và định lượng trong nhau sẽ đảm bảo được tính chính xác cao hơn (tức là tính toán được một con số cụ thể cho chỉ tiêu phân tích và tập hợp được đầy đủ những trạng thái biến đổi của đối tượng phân tích cũng như các nhân tố ảnh hưởng từ những tác động bên trong và bên ngoài doanh nghiệp như tiềm năng, dự báo xu thế phát triển, rủi ro trong kinh doanh ở hiện tại và tương lai,…) khi phân tích cũng như đánh giá trong từng trường hợp cụ thể.
- Chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh phải được xem xét ở trạng thái động hoặc trạng thái tĩnh.
Trạng thái tĩnh tức là sự so sánh giữa chỉ tiêu này với chỉ tiêu khác, còn trạng thái động lại có thể phân tích theo một trong hai khuynh hướng sau: xem xét cùng một chỉ tiêu theo thời gian (xem xét chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp với quy mô vốn kinh doanh không đổi); hay các chỉ tiêu ở trạng thái tĩnh theo thời gian.
Như vậy, việc đảm bảo được những nguyên tắc nêu trên sẽ tăng được tính chính xác cho hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.3.2. Hệ thống chỉ tiêu phân tích
Theo nội dung phân tích hiệu quả kinh doanh đã trình bày, phân tích hiệu quả kinh doanh được căn cứ vào danh mục hai loại chỉ tiêu: Chỉ tiêu phản ánh