PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, đô thị Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, số lượng cũng như chất lượng. Hệ thống đô thị Việt Nam đã tạo ra một diện mạo đô thị mới theo hướng không gian đô thị văn minh và hiện đại, tạo điều kiện cho người dân có cuộc sống chất lượng cao. Hệ thống đô thị Việt Nam phát triển ngày càng mạnh mẽ, phân bố tương đối đồng đều trên cả nước. Đô thị đã góp phần quan trọng đưa nước ta thoát khỏi ngưỡng nghèo để trở thành nước có thu nhập trung bình thấp. Diện mạo đô thị đang dần khởi sắc. Hệ thống hạ tầng đô thị được cải thiện nhiều, nhất là đường sá, cầu vượt sông, cấp nước, cấp điện và chiếu sáng công cộng. Nhiều khu đô thị mới được xây dựng.
Tuy nhiên, ở Việt Nam sau đổi mới, xuất hiện nhiều vấn đề trong quá trình phát triển đô thị như: tăng trưởng nóng, thiếu quy hoạch, vấn đề môi trường, quản lý xã hội ở các đô thị. Một mặt, tầm nhìn quy hoạch và quản lý đô thị yếu kém đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, đe dọa đến phát triển bền vững, mặt khác, nhiều vùng nông thôn đã “ nôn nóng” trở thành đô thị thông qua quyết định hành chính mà chưa tuân thủ các quy luật phát triển của kinh tế đô thị,… Sự tăng trưởng kinh tế cùng với tốc độ đô thị hóa nhanh kéo theo sự bùng nổ về nhu cầu đi lại trong các đô thị, nhất là các đô thị đặc biệt lớn. Để đáp ứng nhu cầu đi lại các phương tiện vận tải phát triển không ngừng, đây thực sự là một thách thức với hệ thống giao thông đô thị. Sự gia tăng nhanh chóng của phương tiện cá nhân là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường và nhiều vấn đề khác của các đô thị. Chính phủ cùng với Chính quyền các đô thị đã và đang nỗ lực tìm kiếm các công cụ để giải quyết tình trạng này, trong đó phát triển VTHKCC, đặc biệt là dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt được xem là giải pháp hữu hiệu, trọng tâm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hệ thống VTHKCC bằng xe buýt tại các đô thị của Việt Nam chưa hoạt động thực sự hiệu quả, và mới chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu cầu đi lại của người dân.
Hà Nội là trung tâm chính trị - hành chính – văn hóa của cả nước. Những năm gần đây quá trình đô thị hóa ở Hà Nội đang diễn ra rất nhanh theo chiều rộng, điều này mang đến nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng kéo theo đó là nhiều vấn đề như việc cơ
sở hạ tầng giao thông không theo kịp tốc độ phát triển của thành phố, tình trạng ùn tắc giao thông và ô nhiễm môi trường diễn biến ngày càng phức tạp. Để giải quyết vấn đề tăng trưởng nóng của thành phố, cùng với hạn chế phương tiện giao thông cá nhân thì phát triển và nâng cao hiệu quả VTHKCC, đặc biệt là hệ thống VTHKCC bằng xe buýt được chính quyền thành phố xác định là nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm trong chiến lược phát triển thành phố. Chính sách này cần tiếp tục kiên định thực hiện với những ưu tiên phù hợp cho từng giai đoạn. Nghiên cứu trường hợp dịch vụ xe buýt tại thành phố Hà Nội, một đô thị điển hình của Việt Nam, bao gồm tiến hành đánh giá thực trạng phát triển, xác định những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phương hướng, quan điểm, mục tiêu phát triển của chính quyền thành phố sẽ giúp đưa ra những tri thức mang tính khái quát cao về vấn đề phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt, từ đó giúp các nhà quản lý hoạch định chiến lược và xây dựng các giải pháp phát triển dịch vụ xe buýt phù hợp với đặc thù của từng đô thị của Việt Nam. Vì lẽ đó, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt tại các đô thị ở Việt Nam - Nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội” làm luận án tiến sỹ.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận án
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt từ thực trạng sự phát triển của dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt tại thành phố Hà Nội, từ đó xác định vị trí, vai trò và tác động của từng bên trong mối quan hệ 3 bên Nhà nước - Doanh nghiệp - Người dân, sau đó đưa ra một số khuyến nghị phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt tại các đô thị của Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt tại các đô thị ở Việt Nam nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội - 1
- Phát Triển Dịch Vụ Vận Tải Hành Khách Công Cộng Bằng Xe Buýt Và Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Phát Triển Dịch Vụ Vận Tải Hành Khách Công Cộng
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Phát Triển Dịch Vụ Vận Tải Hành Khách Công Cộng Bằng Xe Buýt Trong Đô Thị
- Cơ Sở Lý Luận Về Những Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Phát Triển Dịch Vụ Vận Tải Hành Khách Công Cộng Bằng Xe Buýt Tại Đô Thị
Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài sẽ tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rò những vấn đề lý luận về phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt tại các đô thị;
- Phân tích thực trạng phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt ở Hà Nội.
- Xác định các nhân tố và đánh giá tầm quan trọng của các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt tại Hà Nội. Các nhân tố được phân thành ba nhóm dựa theo tiêu chí các bên liên quan tới phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt
bao gồm: (1) Sự quản lý của Nhà nước; (2) Năng lực của doanh nghiệp; và (3) Nhận thức của người dân
- Từ kết quả nghiên cứu hệ thống VTHKCC bằng xe buýt tại Hà Nội, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt tại các đô thị của Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt tại các đô thị (nghiên cứu tại Thành phố Hà Nội)
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt tại Hà Nội.
- Về không gian – địa bàn: Nghiên cứu tại Thành phố Hà Nội
- Về thời gian: Đánh giá thực trạng giai đoạn 2016-2020; Đề xuất giải pháp giai
đoạn 2020 - 2025và tầm nhìn 2030.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện với phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử. Đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Được tiến hành bằng thu thập, phân tích các công trình nghiên cứu về dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt, đánh giá mặt giá trị có thể kế thừa, mặt lạc hậu cần gạt bỏ, mặt phản giá trị cần phê phán, đồng thời phát hiện những khoảng trống cần khỏa lấp hoặc nghiên cứu phát triển. Tài liệu thứ cấp rất phong phú, đa dạng, từ đề tài khoa học, luận án, sách chuyên khảo, tham khảo, bài báo... nên việc lựa chọn, phân loại trước khi phân tích có ý nghĩa rất quan trọng, gắn với đánh giá khung lý thuyết mà mỗi tác giả sử dụng, bối cảnh nghiên cứu, trường phái theo đuổi, logic chính trị hay kinh tế của mỗi nghiên cứu.
- Phương pháp xử lý số liệu thống kê: Dựa trên các nguồn số liệu thống kê của các cơ quan thống kê chuyên nghiệp, các báo cáo hành chính, báo cáo xã hội của các nghiên cứu trước đây, nhóm nghiên cứu sẽ phân tích, đánh giá những thành tựu và hạn
chế của dữ liệu, thông tin, được so sánh với các dữ liệu sơ cấp thu được từ kết quả nghiên cứu độc lập của đề tài. Trên cơ sở đó rút ra các nhận xét, kết luận khoa học khách quan phục vụ cho xây dựng báo cáo tổng hợp, báo cáo kiến nghị.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Được thực hiện bằng: (1) chọn mẫu khảo sát;
(2) thiết kế bảng hỏi, cần quan tâm đến các loại câu hỏi (câu hỏi lựa chọn, trả lời có trọng số, câu hỏi mở, câu hỏi phân tích cơ cấu; (3) xử lý kết quả điều tra: dựa trên cơ sở thống kê toán học trên máy tính (bằng các chương trình phổ biến như: Excel, Stata, SPSS – Statistic Package for Social Studies).
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phương pháp này được áp dụng để tổng hợp ý kiến chuyên sâu của chuyên gia đối với các vấn đề, nội dung, kết quả nghiên cứu của đề tài. Đặc biệt, phương pháp này được áp dụng để tham vấn, xác định các kết quả liên quan tới việc đề xuất, khuyến nghị các chính sách phát triển dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt đáp ứng yêu cầu phát triển của đô thị - nghiên cứu trường hợp của Thủ đô Hà Nội
- Phương pháp mô hình hóa: Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đòi hỏi phải áp dụng phương pháp mô hình hóa, bao gồm trên cả hai phương diện: mô hình phát triển dịch vụ vận tải hành khách phát triển dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt; và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt.
5. Đóng góp mới của luận án
Về mặt lý luận
- Hệ thống hóa và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt tại các đô thị;
- Đề xuất và xây dựng mô hình đo lường sự ảnh hưởng của các yếu tố đến sự phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt tại các đô thị;
Về mặt thực tiễn
- Từ việc thực trạng phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt ở Thành phố Hà Nội, luận án nhận diện được các điểm mạnh, điểm yếu, các “khoảng trống” còn thiếu hụt trong phát triển dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt ở Thành phố Hà Nội Luận án đã đo lường mức độ ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố thuộc về phía Nhà nước/Chính quyền
địa phương; các tổ chức vận chuyển hành khách và khách hàng, đến phát triển dịch vụ vận tải hành khách tại đô thị; qua đó, lượng hóa được mối quan hệ tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển hệ thống dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
- Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở để chính quyền các đô thị tại Việt Nam có thể tham khảo đưa ra các chính sách nhằm hoàn thiện và phát triển hơn hệ thống dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt trên địa bàn quản lý trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận án
Nội dung của luận án gồm có 5 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý luận về những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt tại đô thị
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ vận tải hành khách bằng xe buýt tại Thành phố Hà Nội.
Chương 5: Phát triển dịch vụ vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt tại các đô thị ở Việt Nam giai đoạn 2020-2025 và tầm nhìn 2030 – Qua nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội.
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Dịch vụ công và dịch vụ vận tải hành khách trong đô thị.
1.1.1 Dịch vụ công
Nói về dịch vụ công, trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu khác nhau về vấn đề này có thể kể đến như: Urban Economic analysis (WZ Hirsch – 1973),The distribution of public services: The preliminary model (Bryan D.Jones & Clifford Kaufman - 1974),Urban sprawl and the cost of public services (John I Carruthers& Gudmundur F Ulfarsson – 2003), Public services delivery (World Bank – 2003)tuy nhiên đều thống nhất trong cách định nghĩa “Dịch vụ công”, theo đó Dịch vụ công là những dịch vụ do chính quyền đứng ra thực hiện hoặc ủy quyền và phân phối các loại hàng hóa công cộngmang 1 hoặc 2 đặc tính sau: tính không loại trừ (non-excludable) và không cạnh tranh (non-rival).
Các nghiên cứu trong nước lại cho thấy một góc nhìn khác về định nghĩa của dịch vụ công khi tập trung vào chủ thể cung ứng cũng như đối tượng thụ hưởng và những lợi ích xã hội đặc biệt mà loại hình dịch vụ này mang lại
Đầu tiên là quan điểm của Nguyễn Ngọc Hiến (2002), ông cho rằng khái niệm dịch vụ công bao hàm nhiều loại dịch vụ khác nhau tuy nhiên chúng có 2 điểm chung sau: thứ nhất, đó là các dịch vụ này đều nhằm phục vụ cho lợi ích chung và thiết yếu của toàn thể xã hội. Thứ 2 đó là dù bằng cách này hay cách khác, Nhà nước luôn phải nắm vai trò chủ thể, chịu trách nhiệm đảm bảo cho quá trình cung ứng các dịch vụ này cho toàn xã hội. Theo Lê Chi Mai (2003), bộ máy nhà nước thực hiện 2 chức năng: chức năng cai trị (governance) và chức năng phục vụ, và dịch vụ công chính là các hoạt động thể hiện chức năng phục vụ cho xã hội, các tổ chức và công dân. Việc thực hiện chức năng cai trị xuất phát từ yêu cầu của bản thân bộ máy chính quyền, còn việc thực hiện chức năng phục vụ lại xuất phát từ nhu cầu của xã hội, các tổ chức và cá nhân trong xã hội, ngay khi nhu cầu này có thể phát sinh từ các yêu cầu của chức năng quản lý. Tựu chung lại, các khái niệm trên đều cho rằng dịch vụ công là một phần trong nghiệp vụ quản lư nhà nước của các cơ quan công quyền. Dù các tổ chức kinh tế và tư nhân có thể đứng ra thực hiện tuy nhiên trách nhiệm cao nhất trước toàn thể xã hội vẫn thuộc về các cơ quan nhà nước.
Trong cuốn sách “Quản lý nhà nước đối với cung ứng dịch vụ công” của Đỗ Thị Hải Hà (2007) định nghĩa dịch vụ công trước hết là một loại hình dịch vụ nhưng nó mang thêm đặc tính công, thể hiện ở các điểm sau: do cơ quan công quyền đảm nhận (trực tiếp hoặc thông qua ủy quyền, đấu thầu), tạo ra hàng hóa công cộng phục vụ cho
mọi người dân, hoạt động theo thể chế công và theo quan điểm đạo đức công, đáp ứng các nhiệm vụ công và trên hết đó là mang lại lợi ích cho toàn xã hội
Có một số quan niệm cho rằng, dịch vụ công hiểu rộng ra là toàn bộ các hoạt động công vụ và hành chính công, tuy nhiên nếu xét như vậy trong cách phân loại chúng ta sẽ bỏ qua một số loại hình dịch vụ công, không tách biết được các chức năng của bộ máy quản lý nhà nước, dẫn đến không xác định được các nhân tố ảnh hưởng chất lượng nhằm cải tiến các hoạt động phù hợp với yếu cầu riêng biệt của từng loại hình dịch vụ công (Lê Chi Mai, 2003).
Theo cách phân loại theo chủ thể cung ứng, chúng ta có 3 loại dịch vụ công như sau (Lê Chi Mai, 2003): Dịch vụ công do các cơ quan nhà nước trực tiếp cung cấp, bao gồm các hoạt động công vụ, hành chính công, các dịch vụ công cộng cơ bản; Dịch vụ công do các tổ chức tư nhân, phi chính phủ cung cấp dưới sự ủy nhiệm và giảm sát của nhà nước, gồm những dịch vụ mà Nhà nước có trách nhiệm cung cấp, nhưng không trực tiếp thực hiện; Dịch vụ công do nhà nước và các tổ chức phi chính phủ, khu vực tư nhân phối hợp thực hiện (Các hình thức hợp tác công tư PPP).
Dựa theo quan niệm của WB và định nghĩa về dịch vụ công là các dịch vụ mang đặc tính công (Đỗ Thị Hải Hà, 2006), chúng ta có cách phân loại dựa trên tính chất và tác dụng của dịch vụ được cung ứng, cụ thể bao gồm các loại sau: Dịch vụ công đặc thù, loại dịch vụ do bộ máy cơ quan Nhà nước đảm nhiệm, thực hiện thông qua đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo chức năng cai trị của Nhà nước đối với xã hội; Dịch vụ hành chính công, bao gồm các hoạt động cung ứng hàng hóa công cộng trực tiếp cho các tổ chức, công dân nhằm đảm bảo việc vận hành của toàn xã hội; Dịch vụ sự nghiệp công, Nhà nước chịu trách nhiệm cung ứng các loại hàng hóa công cộng (dưới dạng các phúc lợi công) như: Giáo dục, y tế, bảo hiểm, an sinh xã hội… cho người dân theo nguyên tắc thu phí, có thể do Nhà nước trực tiếp đảm nhiệm hoặc thông qua xã hội hóa, ủy quyền cho các tổ chức phi chính phủ, khu vực tư nhân; Dịch vụ công cộng, gồm các dịch vụ có thu phí nhưng mang tính phi lợi nhuận nhằm đáp ứng các nhu cầu bức thiết của người dân, do các cơ sở thực hiện theo yêu cầu của cơ quan hành pháp nhà nước.
Các nghiên cứu có sự khác nhau trong việc xác định về vai trò của các bên trong việc cung ứng tài chính và tổ chức cung ứng dịch vụ công. Dựa theo các nghiên cứu được tổng hợp, có thể xác địch dịch vụ xe buýt là một loại hình dịch vụ công, thuộc nhóm các dịch vụ công cộng với mục tiêu đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân, chịu sự quản lý, điều chỉnh của Nhà nước, được cung ứng bởi Nhà nước hoặc một bên thứ 3. Thực tiễn cho thấy ở thành phố Hà Nội, dịch vụ xe buýt đang được cung ứng dưới hình
thức Nhà nước trợ giá và cho doanh nghiệp đủ năng lực đấu thầu tham gia cung ứng dưới sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước.
1.1.2 Đô thị và dịch vụ vận tải hành khách đô thị
Hiện nay, các đô thị của Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển, mở rộng và hiện đại hóa mạnh mẽ, nhiều chính sách quy hoạch phát triển được đưa ra nhằm thay đổi bộ mặt của giao thông đường bộ đô thị theo chiều hướng tích cực hơn. Song song với đó, tại Việt Nam cũng đã và đang diễn ra nhiều công trình nghiên cứu thực tế và mạng lại hiệu quả lớn cho bộ mặt GTVT nói chung cũng như vận tải hành khách công cộng nói riêng. Một số công trình nghiên cứu về vấn đề phát triển đô thị, VTHK đô thị của một số tác giả đáng chú ý gồm có:
Ở Việt Nam, đô thị được Nhà nước quy định là các thành phố, thị xã, thị trấn có số dân từ 4000 người trở lên, trong đó trên 65% lao động trong lĩnh vực phi nông nghiệp… (Nghị định số 72/2001/NĐCP của Thủ tướng Chính phủ). Hiện nay quan niệm đó được các nhà quản lý bổ sung thêm một tiêu chuẩn nữa là cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, cơ sở hạ tầng kỹ thuật của đô thị có thể hoàn chỉnh, đồng bộ hoặc chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ nhưng phải có quy hoạch chung cho tương lai. Ở một góc nhìn khác, theo Bộ xây dựng trong thông tư liên tịch số 2/TTLT-BXD-TCCBCP, xây dựng trên góc độ quản lý kinh tế - xã hội, thì đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, một tỉnh, một huyện hoặc một vùng trong tỉnh hoặc trong huyện. Trong nghiên cứu của Nguyễn Hữu Đoàn (2009), xem xét trên quan điểm xã hội học, đô thị là một hình thức tồn tại của xã hội trong một phạm vi không gian cụ thể và là một hình thức cư trú của con người. “Sự tồn tại của đô thị tự bản thân nó khác hẳn vấn đề đơn giản là xây dựng nhiều nhà cửa độc lập với nhau, ở đây cái tổng hợp, cái chung nhất không phải là con số cộng của những bộ phận cấu thành. Đó là một cơ thể sống riêng biệt theo kiểu của nó”, tác giả cho biết. Theo nghiên cứu của Phạm Ngọc Côn (1999), một trong những vấn đề cơ bản của phát triển vùng đô thị là việc xác định phạm vi lãnh thổ, số lượng đô thị và cơ chế phối hợp giữa các đô thị. Trong thực tế, không gian vùng đô thị được xác định trên cơ sở ảnh hưởng của đô thị trung tâm đến các đô thị vệ tinh. Ranh giới vùng mang tính tương đối và tính lịch sử phụ thuộc và sức lan toả của đô thị trung tâm và trình độ quản lý, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của các đô thị vệ tinh.
Theo nghiên cứu của Arthur o’Sullivan (2003) xem xét trên phương diện vĩ mô