b) Chứng cứ để chứng minh "thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội" là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra vào thời gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm như thế nào;
c) Chứng cứ để chứng minh "Ai là người thực hiện hành vi phạm tội" là chứng cứ xác định một con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó;
d) Chứng cứ để chứng minh "Có lỗi hay không có lỗi" là chứng cứ xác định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi hay không có lỗi; nếu có lỗi thì thuộc trường hợp lỗi cố ý (lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (lỗi vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả) theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 BLHS;
đ) Chứng cứ để chứng minh "Có năng lực trách nhiệm hình sự hay không" là chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa; có mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay không và nếu có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào, trong giai đoạn tố tụng nào;
e) Chứng cứ để chứng minh "Mục đích, động cơ phạm tội" là chứng cứ xác định người thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì và trong trường hợp mục đích, động cơ phạm tội là yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc là yếu tố (tình tiết) của cấu thành tội phạm hoặc là yếu tố (tình tiết) định khung hình phạt;
g) Chứng cứ để chứng minh tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo là chứng cứ xác định bị can, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 46 BLHS; có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 48 BLHS hoặc là chứng cứ xác định tình tiết định khung hình phạt;
h) Chứng cứ để chứng minh những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo là chứng cứ xác định lý lịch tư pháp của bị can, bị cáo;
i) Chứng cứ để chứng minh "Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra" là chứng cứ để đánh giá tính chất, hậu quả (vật chất và phi vật chất) của hành vi phạm tội trong việc xác định tội phạm và quyết định hình phạt;
k) Chứng cứ khác để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 BLTTHS mà thiếu chứng cứ đó thì không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án, như: Chứng cứ để xác định chính xác tuổi của bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc xác định chính xác tuổi của người bị hại là trẻ em; chứng cứ để chứng minh vị trí, vai trò của từng bị can, bị cáo trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức; v.v...
Ba là, điều kiện để trả hồ sơ điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án:
Có thể bạn quan tâm!
- Các Vấn Đề Khác Liên Quan Đến Chứng Cứ, Chứng Minh
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 9
- Những Quy Định Của Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Hiện Hành Về Chứng Cứ
- Thu Thập, Kiểm Tra Và Đánh Giá Chứng Cứ
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 13
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.
a) Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án được hướng dẫn tại khoản 1, khoản 2 Điều này nếu VKS không thể tự mình bổ sung được;
b) Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử), hội đồng xét xử (tại phiên tòa) ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án được hướng dẫn tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà xét thấy không thể bổ sung tại phiên tòa được;
c) Không trả hồ sơ nếu là chứng cứ quan trọng nhưng nếu thiếu cũng truy tố, xét xử được hoặc không thể thu thập được.
Ví dụ: Có ba người làm chứng nhưng chỉ xác định được hai người hay hiện trường đã bị thay đổi không thể xem xét lại được hay vật chứng đã mất không thể tìm được.
Tóm lại, làm rò khái niệm chứng cứ, các thuộc tính của chứng cứ và khái niệm chứng cứ quan trọng có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, bảo đảm việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử phải công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội. Việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội hay làm oan người vô tội đều gây ra những hậu quả rất nặng nề không chỉ đối với xã hội (bỏ lọt tội phạm dẫn đến tình hình tội phạm ẩn và tiềm ẩn gia tăng; hay làm người phạm tội "khinh nhờn" pháp luật và công lý không được bảo đảm vì bỏ lọt người phạm tội), mà còn gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng không chỉ cho gia đình, vợ con, họ hàng, uy tín, danh dự, nhân phẩm của người bị oan, mà còn làm mất lòng tin của nhân dân đối với sự công bằng của pháp luật và các cơ quan tư pháp (nếu làm oan người vô tội) [134, tr. 86].
2.1.2. Nguồn chứng cứ
Dưới góc độ lập pháp tố tụng hình sự, thuật ngữ "nguồn chứng cứ" không được ghi nhận cụ thể, các nhà làm luật Việt Nam chỉ quy định gián tiếp về nguồn chứng cứ, khoản 2 Điều 64 BLTTHS năm 2003 quy định:
2. Chứng cứ được xác định bằng:
a) Vật chứng;
b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Kết luận giám định;
d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác [10].
Theo đó, từ những nguồn chứng cứ này mà các CQĐT, truy tố, xét xử xác định được chứng cứ và sử dụng nó nhằm mục đích tìm ra sự thật khách quan để giải quyết vụ án. Do đó, dưới góc độ khoa học, các nhà khoa học gọi là "nguồn chứng cứ".
Như đã nêu trên, chứng cứ trong vụ án hình sự là những gì có thật liên quan đến vụ án hình sự mà dựa vào nó, các cơ quan tiến hành tố tụng dùng làm
căn cứ xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, mức độ, tính chất hành vi và từ những tình tiết khác liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Do đó, nguồn chứng cứ là hình thức, nơi chứa đựng những gì có thật liên quan đến vụ án hình sự hay là "nơi, từ đó có thể tìm ra đối tượng được chủ thể sử dụng để chứng minh" [75, tr. 49]. Nói một cách khác, chứng cứ là nội dung phản ánh sự việc, hiện tượng của vụ án còn nguồn chứng cứ là hình thức chứa đựng các nội dung bên trong nó. Chẳng hạn, lời khai của người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự... là nguồn chứng cứ, còn những thông tin, tình tiết chứa trong lời khai đó mới là chứng cứ. Cho nên, nội dung không thể tồn tại độc lập riêng biệt mà nó phải được chứa đựng, nằm trong một hình thức nhất định. Do đó, việc làm rò từng loại nguồn chứng cứ trong BLTTHS hiện hành để giải quyết vụ án hình sự được khách quan, chính xác và đúng pháp luật có ý nghĩa quan trọng.
* Vật chứng
Vật chứng là một nguồn chứng cứ quan trọng đầu tiên mà thông qua nó, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thể chứng minh được sự việc phạm tội hoặc xác định hướng điều tra về sau.
Điều 74 BLTTHS quy định: "Vật chứng là những vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội". Như vậy, vật chứng là vật cụ thể, tồn tại dưới dạng vật chất, chứa đựng những sự kiện thực tế liên quan đến vụ án, sự liên quan này có thể ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp nhưng quan trọng nó phải nằm trong mối liên quan tổng thể của vụ án hình sự và bao gồm những điển hình sau:
- Vật chứng là những vật dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội. Đây là những vật mà người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội đã sử dụng chúng để hỗ trợ quá trình thực hiện tội phạm để góp phần hoàn thành nhanh chóng và thuận lợi hơn. Ví dụ: dùng dao, súng, rìu để giết người, dây thừng, dây dù để thắt cổ, thuốc độc để đầu độc...
- Vật chứng là những vật mang dấu vết tội phạm. Ở đây, vật chứng thể hiện bằng những dấu vết mà người phạm tội đã để lại trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội (hiện trường) và dấu vết này được gọi là dấu vết hình sự. Dấu vết hình sự là "những phản ánh của các sự vật, hiện tượng để lại trong quá trình thực hiện tội phạm" [75, tr. 74-75]. Ví dụ: trộm cắp tài sản để lại dấu vết phá khóa, cạy tủ hay quần áo, hung khí của người phạm tội có dính máu của nạn nhân...
- Vật chứng là đối tượng của tội phạm mà người phạm tội tác động đến. Ví dụ: tài sản (xe máy, dây chuyền, đồng hồ...) trong các tội chiếm đoạt tài sản, hàng hóa trong tội buôn lậu...
- Vật chứng là tiền và những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội. Ví dụ: đồ trang sức, tiền bạc trên chiếu bạc, đồ vật mà người phạm tội đã mua sắm được bằng tài sản do chiếm đoạt của người khác, quần áo, giầy dép, mũ của người phạm tội tại hiện trường nơi xảy ra vụ án...
Thông thường, vật chứng được thu thập khi phát hiện ra tội phạm bằng những hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng (ví dụ như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám nơi ở, nơi làm việc, xem xét đồ vật...), nhưng nhiều trường hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự việc thu thập chứng cứ có thể do bị can, bị cáo, người làm chứng... hoặc bất kỳ cơ quan, tổ chức nào cung cấp.
Vật chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng, nó ghi nhận chính xác những sự kiện thực tế của vụ án nên giá trị chứng minh của nó trong vụ án hình sự có thể là rất cao "và trong nhiều trường hợp, không có gì có thể thay thế được chúng" [65, tr. 210]. Với đặc tính là vật duy nhất, vật chứng tồn tại một cách khách quan, nó lưu giữ các hình ảnh xảy ra trong hiện thực bởi vậy, nó không thể thay thế được bằng bất cứ vật thể nào khác, không bị chi phối bởi ý thức chủ quan của con người. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, sự tồn tại của vật chứng chỉ mang tính chất tương đối, chỉ ở một
mức độ, một thời hạn nhất định. Do đó, trong quá trình thu thập, bảo quản vật chứng, các cơ quan có thẩm quyền phải bảo đảm nguyên vẹn, không để mất mát, hư hỏng hay lẫn lộn vật chứng. Đây cũng có thể được coi là đặc điểm thứ ba của vật chứng, đó là nó phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu thập theo trình tự mà pháp luật tố tụng hình sự quy định, đồng thời người có trách nhiệm bảo quản phải thực hiện nghiêm chỉnh theo đúng quy định, nếu vi phạm tùy mức độ sẽ bị xử lý. Để thực hiện đúng quy định về thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng, Liên ngành TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư liên tịch số 06/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTC-BTP ngày 24/10/1998 hướng dẫn một số vấn đề về bảo quản và xử lý tài sản là vật chứng, tài sản bị kê biên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; Chính phủ ban hành Nghị định số 18/2002/NĐ-CP ngày 18/02/2002 và Nghị định số 70/2013/NĐ-CP ngày 02/07/2013 về quản lý kho vật chứng.
* Lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan đến vụ án
Lời khai trong vụ án hình sự có thể nói cũng là một nguồn chứng cứ rất quan trọng. CQĐT sử dụng hoạt động nghiệp vụ của mình để có được những lời khai, còn hội đồng xét xử có vai trò thẩm định lại những lời khai đó một lần nữa tại phiên tòa. Trên cơ sở này, lời khai mang các ý nghĩa, giá trị khác nhau phụ thuộc vào tư cách tham gia của các chủ thể như: lời khai của bị can, bị cáo thể hiện thái độ thừa nhận hay phủ nhận hành vi phạm tội, lời khai của người làm chứng thể hiện sự hiểu biết của họ đối với những tình tiết liên quan của vụ án... Sự hình thành lời khai là một quá trình vô cùng phức tạp, nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan khác nhau, do đó cần hết sức chú ý tùy từng đối tượng tham gia với tư cách nào trong vụ án mà có hướng thu thập, kiểm tra và đánh giá cho phù hợp.
Lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan đến vụ án được xem xét là nguồn chứng cứ. So với BLTTHS năm 1988, các nhà làm luật Việt Nam đã bổ sung thêm lời khai của người bị bắt cũng là nguồn chứng cứ nhằm bảo đảm quyền lợi của công dân ngay từ thời điểm bị bắt, cũng như họ được quyền trình bày về những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm (Điều 71).
- Lời khai người làm chứng. Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến vụ án hình sự và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến với tư cách người làm chứng để lấy lời khai theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Lời khai của người làm chứng là lời trình bày của một người không bị người phạm tội xâm hại nhưng đã biết được những tình tiết liên quan đến vụ án. Do lời khai người làm chứng là nguồn chứng cứ phổ biến và là "một trong những nguồn chứng cứ lâu đời và phổ biến nhất" [78, tr. 62] nên BLTHS có quy định về nghĩa vụ khai báo và trách nhiệm của người làm chứng về việc khai báo đó. Ngoài ra, BLTTHS năm 2003 còn quy định người làm chứng phải là người có năng lực nhận thức, tỉnh táo không mắc bệnh tâm thần, phải có khả năng khai báo đúng đắn và có trách nhiệm đối với lời khai đó. Những người bào chữa cho bị can, bị cáo không được làm chứng trong vụ án.
Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết về vụ án, nhân thân của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là, mặc dù lời khai người làm chứng là rất cần thiết nhưng để trở thành chứng cứ có giá trị chứng minh, lời khai này còn phải phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án và người làm chứng phải trả lời rò vì sao mà họ biết được những tình tiết đó (khoản 2 Điều 67). Mặt khác, trong quá trình thu thập, đánh giá và sử dụng lời khai của người làm chứng, điều tra viên phải nắm vững được những
yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau ảnh hưởng đến lời khai và sự hiểu biết hay nhận thức của họ. Chẳng hạn:
+ Các yếu tố khách quan có thể ảnh hưởng đến lời khai của người làm chứng như: thời gian để họ nhận biết sự việc, hiện tượng diễn ra quá nhanh hoặc thời gian xảy ra đã quá lâu; người làm chứng không có kiến thức về lĩnh vực đó; hiện trường nơi xảy ra tội phạm, người phạm tội đã làm thay đổi, tẩy xóa; điều kiện thời tiết khí hậu xấu, nơi xảy ra tội phạm lại xa...
+ Các yếu tố chủ quan cũng có thể ảnh hưởng đến lời khai người làm chứng. "Để có thể biết được lời khai người làm chứng có khách quan hay không, điều tra viên phải thận trọng, từng bước đi sâu vào nội tâm bên trong người làm chứng xem họ có bị dao động bởi động cơ cá nhân hay không, họ có mối quan hệ thân thích hay tư thù với những người trong vụ án, quyền lợi của họ có bị thay đổi, ảnh hưởng bởi phán quyết của Tòa án không" [55, tr. 57-58]. Cho nên, BLTTHS quy định trước khi hỏi về nội dung vụ án, điều tra viên cần xác định mối quan hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại và những người làm chứng khác (khoản 1 Điều 67).
Ngoài ra, tâm lý người làm chứng thường có ý nghĩ không dám khai báo hoặc khai báo tất cả những gì họ biết về hành vi phạm tội. Lý do đa số mọi người không thích làm chứng, bởi họ sợ mất thời gian, liên lụy hay bị trả thù mà thực tế đã có nhiều trường hợp các gia đình của những người phạm tội đe dọa, trả thù thậm chí còn xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người làm chứng, hơn nữa, tham gia tố tụng chỉ có nghĩa vụ mà không hề có quyền lợi gì. Nếu người làm chứng không đến theo giấy triệu tập thì có thể bị dẫn giải, ngoài ra nếu từ chối hay trốn tránh việc khai báo thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự theo các điều 307-308 BLHS. Vì vậy, khắc phục vấn đề này, BLTTHS năm 2003 đã quy định bổ sung thêm các quyền mà người làm chứng được hưởng để bảo đảm hài hòa tối đa giữa quyền và nghĩa vụ của họ. Người làm chứng có một số quyền như:
.....