Những hạn chế trong xuất khẩu lao động của Việt Nam - 12


KẾT LUẬN


Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đối ngoại ngày càng phổ biến, gắn với xu hướng toàn cầu hóa kinh tế. Việt Nam là nước đông dân, đang trong thời kỳ "cơ cấu dân số vàng", nên trên thị trường LĐ trong nước cung thường lớn hơn cầu. Trong khi đó, cầu về LĐ ở nhiều nước trên thế giới lại nhỏ hơn cung, có khả năng tiếp nhận NLĐ từ Việt Nam. Hoạt động XKLĐ đang đóng vai trò ngày càng quan trọng và cần được đẩy mạnh trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. XKLĐ vừa làm tăng cơ hội việc làm cho người dân, giảm bớt nạn thất nghiệp ở trong nước, nâng cao trình độ chuyên môn cho NLĐ, tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngắn hạn và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại trong dài hạn; vừa là phương tiện thu hút ngoại tệ, làm tăng thu nhập cá nhân và thu nhập quốc gia, góp phần xóa đói giảm nghèo... Do vậy, việc đẩy mạnh XKLĐ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang trở thành cấp thiết.

XKLĐ của Việt Nam bắt đầu từ năm 1980. Trong giai đoạn đầu (1980 - 1990), Việt Nam chủ yếu hợp tác quốc tế về lao động và chuyên gia với các nước XHCN. Từ năm 1991 đến nay, hoạt động hợp tác quốc tế về lao động và chuyên gia chuyển sang XKLĐ và vận hành theo quỹ đạo của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhận thức được tầm quan trọng của XKLĐ, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 22/09/1998 về đẩy mạnh XKLĐ và chuyên gia. Nhờ đó, trong 30 năm hoạt động, XKLĐ của Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn. XKLĐ của Việt Nam đã được nâng lên cả về số lượng và chất lượng, thị trường XKLĐ cũng không ngừng được mở rộng. Chúng ta đã đưa LĐ đi làm việc tại 46 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong khoảng 30 nhóm ngành nghề với số lượng được tăng dần qua các năm, nhờ đó số lao động được giải quyết việc làm thông qua XKLĐ ngày càng tăng. Năm 1992 mới chi có 810 người, đến cuối năm 2000 đã đạt 31.500 người và năm


2008 là 86.990. Hàng năm, lượng ngoại tệ do người đi XKLĐ chuyển về nước khoảng hơn 1,7 tỷ USD (năm 2008 và 2009 đạt 1,8 tỷ), là nguồn thu nhập ròng cho đất nước.

Bên cạnh những kết quả bước đầu đạt dược, hiện nay XKLĐ của nước ta vẫn chưa xứng với tiềm năng của nước ta và còn tồn tại khá nhiều hạn chế. Số lượng LĐ đi làm việc ở NN còn ít so với lực lượng LĐ dồi dào, chủ yếu tập trung ở một số nước Châu Á. Chất lượng nguồn LĐ đi xuất khẩu có tăng nhưng chưa cao, cả về trình độ tay nghề, ngoại ngữ lẫn ý thức, kỷ luật LĐ. Vì vậy, sức cạnh tranh của DN XKLĐ còn hạn chế. Năng lực và trình độ của các DN XKLĐ Việt Nam cũng còn nhiều bất cập. Số lượng lao động Việt Nam vào các thị trường trọng điểm đều biến động thất thường, không ổn định. Công tác quản lý, bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ ở NN của các DN còn yếu, còn phó mặc cho cơ quan đại diện ngoại giao ở nước sở tại. Việc sử dụng nguồn ngoại tệ do LĐ di làm việc ở NN gửi về chưa thực sự hiệu quả. Nhiều LĐ sau khi hết hạn hợp đồng về nước chưa có việc làm ổn định do các DN XKLĐ chưa quan tâm đến "hậu XKLĐ" và việc tìm kiếm việc làm cho NLĐ đi làm việc ở NN về.

Do nhiều nguyên nhân, nhưng có 5 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế trong hoạt động XKLĐ của Việt Nam. Khâu tuyển chọn LĐ đi làm việc ở NN còn thiếu công khai, minh bạch, thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, thiếu thông suốt cũng gây phiền hà và tốn kém cho NLĐ. Đào tạo và giáo dục định hướng cho NLĐ chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường ngoài nước, nhất là những ngành nghề mà thị trường LĐ quốc tế đang thiếu hụt nhân lực. Các thị trường mới, có thu nhập cao đang được mở ra, hứa hẹn nhiều việc làm hấp dẫn cho NLĐ Việt Nam nhưng lại cần LĐ lành nghề, giỏi tiếng Anh nên yêu cầu của họ khá cao so với trình độ của NLĐ Việt Nam. Hỗ trợ kinh phí và cho vay vốn đối với NLĐ đạt hiệu quả thấp. Hoạt động quản lý LĐ làm việc ở NN chưa chặt chẽ. Chúng ta chưa xử lý và ngăn chặn được


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 151 trang tài liệu này.

tình trạng LĐ bỏ trốn, vi phạm hợp đồng LĐ. Các hiện tượng vi phạm hợp đồng, bỏ trốn đi làm việc khác hoặc ở lại làm việc bất hợp pháp sau khi hết hợp đồng, vẫn còn trầm trọng ở nhiều thị trường quan trọng như Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia và Nhật Bản. Lợi ích chính đáng của NLĐ làm việc ở NN cũng chưa được bảo vệ kịp thời và đầy đủ. Các vụ lừa đảo LĐ, đi LĐ trái phép ở NN ngày xảy ra ngày một phức tạp. Nhiều vụ LĐ ta bị lừa ra NN sau đó bị bỏ rơi hoặc không kiếm được việc làm, hết hạn thị thực, bị cảnh sát sở tại bắt giữ, nhiều người trong số phải đi xin ăn hoặc làm việc "chui" cho các chủ LĐ với điều kiện LĐ hết sức tồi tệ. Số NLĐ của Việt Nam ở NN bị chết tăng lên trong thời gian qua, nhất là ở thị trường Ma-lai-xi-a, Hàn Quốc. Việt Nam vẫn chưa thành lập tổ chức công đoàn ở NN để bảo vệ quyền lợi cho NLĐ. Vì vậy, tình trạng NLĐ Việt Nam phải làm việc quá giờ, điều kiện làm việc kém, thậm chí bị xúc phạm nhân phẩm... vẫn còn tồn tại và chậm được phán ánh tới Ban quản lý LĐ và Đại sứ quán Việt Nam ở nước sở tại. Việc sử dụng nguồn LĐ sau khi về nước chưa được quan tâm đúng mức. Chủ trương sử dụng nguồn LĐ này để đóng góp vào sự nghiệp CNH - HĐH nước đã được đặt ra trong "Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng". Tuy nhiên, những văn bản cụ thể về sử dụng người lao động về nước vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu, soạn thảo. Vì vậy, một trong những khó khăn lớn nhất mà NLĐ vướng phải là không tìm được việc làm hoặc chưa được hướng dẫn, hỗ trợ để phát triển kinh tế sau khi về nước. Nhiều NLĐ sau khi về nước phải làm những công việc không đúng nghề dã được đào tạo và có kinh nghiệm làm việc ở NN. Trong khi đó, nhiều DN, đặc biệt là DN của Hàn Quốc, Nhật Bản rất chú trọng nhận lại nguồn LĐ này vì họ biết tiếng, biết nghề. Như vậy, nguồn nhân lực đã làm việc trong môi trường công nghiệp chưa được thu hút vào các ngành nghề phù hợp gây ra tình trạng lãng phí chất xám.

Để khắc phục những hạn chế nhằm đẩy mạnh XKLĐ của Việt Nam trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp. Trước hết, cần

Những hạn chế trong xuất khẩu lao động của Việt Nam - 12


công khai, minh bạch và giảm phiền hà trong tuyển dụng bằng cách tăng cường việc công khai hóa các chính sách, luật pháp về XKLĐ và Hợp đồng cung ứng LĐ của các DN nhằm đảm bảo cho NLĐ tiếp cận thị trường LĐ ngoài nước, hạn chế tối đa các tiêu cực trong lĩnh vực XKLĐ và đơn giản hóa các thủ tục hành chính gây phiền hà cho các DN XKLĐ và NLĐ trong tuyển chọn LĐ xuất khẩu. Để nâng cao chất lượng của lao động tham gia XKLĐ đạt yêu cầu ngày càng khắt khe của các thị trường mới, các cơ quan hữu trách cần phối hợp chặt chẽ với nhau để hoàn thiện việc đào tạo cho LĐ nói chung và LĐ đi làm việc ở NN nói riêng. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần giảm thiểu chi phí XKLĐ và hoàn thiện hệ thống tín dụng cho cả NLĐ và DN đi XKLĐ. Để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động XKLĐ cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật LĐ, Luật XKLĐ, Luật xuất nhập cảnh; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở NN của các DN; phối hợp chặt chẽ và nâng cao trách nhiệm của cơ quan đại diện của Việt Nam ở NN; tạo điều kiện cho NLĐ trong việc vay vốn và chuyển tiền về nước, tăng cường thông tin và hợp tác quốc tế với các nước có LĐ đang làm việc ở NN và cần nghiêm túc để thành lập công đoàn ở NN, nhất là ở những nơi tập trung đông LĐ Việt Nam. Cuối cùng, nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ tạo việc làm và sử dụng hợp lý nguồn LĐ sau khi về nước để tránh tình trạng lãng phí chất xám như hiện nay.

Để thực hiện được những giải pháp trên, cần có sự thống nhất và tham gia đồng bộ của cả hệ thống chính trị, huy động được sự tham gia của các tầng lớp nhân dân vào hoạt động này, kể cả cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài./.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Tiếng Việt

1. Phạm Quốc Anh (2008), Những điều cần biết về Người lao động di trú,

Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.

2. Nguyễn Thị Hồng Bích (2007), Xuất khẩu lao động của một số nước Đông Nam Á: Kinh nghiệm và Bài học, Trung tâm nghiên cứu Quốc tế và Khu vực, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

3. Phạm Thị Thanh Bình (2008), “Di cư lao động ở ASEAN: xu hướng và giải pháp”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, (1).

4. Phạm Thị Thanh Bình, (07/03/2008), Giải pháp khuyến khích di cư lao động Việt Nam”, http://www.tapchicongsan.org.vn.

5. Bộ Công an (29/11/2007), Thông tư 27/2007/TT - BCA hướng dẫn việc cấp, sửa đổi hộ chiếu phổ thông ở trong nước theo Nghị định 136/2007/NĐ-CP về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, http://caicachhanhchinh.gov.vn

6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Báo cáo hàng năm của Cục Quản lý LĐ ngoài nước, Hà Nội.

7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (5/2007), Hội nghị triển khai kế hoạch dạy nghề, việc làm và XKLĐ, Hà Nội.

8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (09/9/2009), Công văn số 3354/LĐTBXH-QLLĐNN quy định mức trần chi phí đối với lao động huyện nghèo vay vốn đi làm việc ở nước ngoài, http://www.chinhphu.vn

9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục quản lý lao động ngoài nước (2009), Những kiến thức cần thiết dùng cho người lao động Việt Nam đi làm việc tại Ả Rập Xê út, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.


10. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục quản lý lao động ngoài nước (2009), Những kiến thức cần thiết dùng cho người lao động Việt Nam đi làm việc tại Đài Loan, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

11. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục quản lý lao động ngoài nước (2009), Những kiến thức cần thiết dùng cho người lao động Việt Nam đi làm việc tại Hàn Quốc, Nxb. Lao động - Xã hội.

12. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục quản lý lao động ngoài nước (2009), Những kiến thức cần thiết dùng cho người lao động Việt Nam đi làm việc tại Macau, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

13. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục quản lý lao động ngoài nước (2009), Những kiến thức cần thiết dùng cho người lao động Việt Nam đi làm việc tại Malaysia, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

14. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội & Bộ Tài chính (09/09/2009), Thông tư liên tịch số 31/2009/TTLT-BLĐTBXH-BTC, Hướng dẫn một số nội dung của Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án" Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009 -2020", http://www.dolab.gov.vn/index.aspx?mid=1176&nid=1348&sid=11

15. Nguyễn Hữu Cát (2006), Những giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Ban Kinh tế Trung ương, Hà Nội.

16. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Nghị định số 29/2003/NĐ-CP ngày 31/03/2003, Về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ LĐTBXH, http://luatvietnam.vn

17. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Nghị định số 141/2005/NĐ-CP ngày 11/11/2005, Về quản lý LĐ Việt Nam đi làm việc ở NN, http://www.molisa.gov.vn.


18. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (17/08/2007), Nghị định 136/2007/NĐ-CP Về xuất, nhập cảnh của công dân Việt Nam, http://www.vnimm.gov.vn

19. Cục Quản lý lao động ngoài nước (6/2000 và 9/2001), Báo cáo Hội nghị XKLĐ và chuyên gia, Hà Nội.

20. Cục Quản lý lao động ngoài nước (2001), Đề án ổn định và phát triển thị trường LĐ ngoài nước thời kỳ 2001-2010.

21. Cục Quản lý lao động ngoài nước (12/2003), Báo cáo Tổng kết và triển khai Nghị định số 81/2003/NĐ-CP của Chính phủ, Hà Nội.

22. Cục Quản lý lao động ngoài nước (01/2008), Kỷ yếu Hội thảo Pháp luật và cơ chế quốc gia, khu vực và quốc tế về bảo vệ người lao động ở nước ngoài.

23. Cục Quản lý lao động ngoài nước (02/12/2009), Quyết định số 69/QĐ- QLLĐNN Về việc phê duyệt chỉ tiêu, kế hoạch đào tạo các nghề trong ngành xây dựng và điều dưỡng viên cho lao động đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế đặt hàng năm 2009, http://www.thuvienphapluat.vn.

24. Phùng Lê Dung - Đỗ Hoàng Điệp, Phát triển nguồn nhân lực dựa trên các chiến lược kinh tế, http://www.dubaonhanluchcm.com

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Nguyễn Đại Đồng (2010), “Thực trạng cung cầu lao động và giải pháp”,

Tạp chí Lao động và xã hội, (381), tr.18-20.

28. Phan Huy Đường (2009), “Giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (357), tr.15-16.

29. Phan Huy Đường (2009), “Nâng cao chất lượng dịch vụ của Nhà nước về bảo vệ quyền lợi người lao động Việt Nam ở nước ngoài”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (143), tr.17-20.


30. Phan Huy Đường (2009), Quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội.

31. Trần Văn Hằng (1996), Các giải pháp nhằm đổi mới quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động ở Việt Nam trong giai đoạn 1995 - 2010, Luận án PTS khoa học kinh tế, Hà Nội.

32. Nguyễn Thanh Hòa (2009), “Chính sách và giải pháp hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh XKLĐ giai đoạn 2009 - 2015”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (351+352), tr.6, tr.27-28.

33. Nguyễn Thanh Hòa (2010), “Kết quả bước đầu thực hiện Quyết đinh 71/2009/QĐ-Ttg về hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh XKLĐ và một số định hướng”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (375), tr.10-11.

34. C (1980), 29/11/1980 Về

việc hợp tác sử dụng lao động với các nước xã hội chủ nghĩa, http://luat.xalo.vn/phap-luat/Nghi-quyet/124411679/Nghi-quyet-Ve- viec-hop-tac-su-dung-lao-dong-voi-cac-nuoc-xa-hoi-chu-nghia.html

35. Hội đồng Nhà nước, Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (13/11/1990), Pháp lệnh lãnh sự 1990, http://www.mofa.gov.vn.

36. Hội Luật gia Việt Nam (2008), Bảo vệ quyền của người lao động di trú Pháp luật và thực tiễn quốc tế, khu vực và quốc gia, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.

37. Lê Hồng Huyên (7/2008), “Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của XKLĐ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Kinh tế phát triển, (133).

38. Lê Hồng Huyên (1+2/2009), “Tác động của di chuyển lao động quốc tế đối với sự phát triển của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Quản lý kinh tế, (24), tr.13-19.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/02/2024