Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới ở Cộng Hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay - Aloun Bounmixay - 2


6.2. Ý nghĩa thực tiễn:

Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động thực tiễn trong việc lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước Lào; làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy trong trường đại học, cao đẳng và các cơ sở đào tạo về chuyên đề VHCT.

7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 12 tiết.


Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI


1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

1.1.1. Một số nghiên cứu chủ yếu ở phương Đông và ở phương Tây

VHCT được hình thành và phát triển gắn liền với đời sống chính trị, nó là những dấu hiệu phân biệt, thể hiện tính đặc trưng cho nhận thức chính trị, cũng như mọi hoạt động chính trị - xã hội của con người trong một xã hội; trung tâm của VHCT không chỉ là tổng số những tri thức của con người về chính trị, mà còn là những định hướng cho việc lựa chọn chính trị; do đó thể hiện ý thức hệ, thái độ, cách thức phong cách chính trị của các chủ thể chính trị, của các cá nhân; VHCT cũng thể hiện khả năng hoạt động chính trị, kể cả những ứng xử theo thói quen của họ. Những tư tưởng này được nghiên cứu và xác định rõ dần trong nhiều tác phẩm của các nhà tư tưởng cả ở phương Đông và cả ở phương Tây.

Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới ở Cộng Hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay - Aloun Bounmixay - 2

Ở phương Đông, Khổng Tử (551 - 471 TCN) là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên đề cập đến VHCT với cách tiếp cận chính trị - đạo đức. Vấn đề căn bản trong học thuyết của ông là người quân tử (người cầm quyền) với những chuẩn mực cần thiết về ứng xử trong chính trị. Niềm tin của ông gắn chặt với luân thường đạo lý và đạo đức cá nhân. Khổng Tử cho rằng, chỉ những người quân tử liêm khiết và tuân theo đạo của người quân tử hay là người có văn hóa mới được cầm quyền, tư cách của những nhân vật đó phải kiên định với địa vị trong xã hội. Triều đại tốt cốt ở chỗ: vua làm tròn bổn phận của vua, bề tôi làm tròn bổn phận của bề tôi, cha làm tròn bổn phận cha và con làm tròn bổn phận của con. Học thuyết chính trị - đạo đức này thể hiện VHCT của Khổng Tử qua những nội dung chủ yếu của các phạm trù như "nhân" "lễ" và "chính danh", tôn trọng người hiền, v.v... Học thuyết tư tưởng thể hiện quan


niệm về VHCT của Khổng Tử chứa đựng những giá trị nhân văn và ý nghĩa thời đại sâu sắc, gắn liền với VHCT ở Trung Quốc và nhiều nước khác ở phương Đông.

Lão Tử (580 - 500 TCN) cũng là nhà tư tưởng đề cập đến đạo trị nước theo phương châm "vô vi nhi trị" trên cơ sở nhận thức và hành động theo "đạo"

- theo quy luật vận động và phát triển tự nhiên của xã hội. Tuy chưa đề cập đến khái niệm VHCT, nhưng điều đó không có nghĩa là Lão Tử không có quan niệm về VHCT. Thực ra, khi bàn về chính trị, về kế sách chính trị, về hoạt động chính trị, Lão Tử đã thể hiện quan niệm về VHCT, về các nội dung của chính trị. Phương châm "vô vi nhi trị" của Lão Tử, thực chất đã thể hiện một quan niệm mới về VHCT, nó thể hiện trong cách thức trị nước của Lão Tử theo yêu cầu về các chuẩn mực ứng xử của người trị nước ở tầm của VHCT.

Ở phương Tây, Platôn (428 - 328 TCN) và Arixtốt (384 - 322 TCN) là những người đầu tiên xem chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Mặc dù triết lý chính trị - xã hội của các ông có những hạn chế lịch sử, nhưng ở đó vẫn chứa đựng hạt nhân hợp lý trong quan niệm về VHCT. Platôn, trong tác phẩm Nền cộng hoà (The Republic) cho rằng, tất cả những chế độ chính trị theo truyền thống như dân chủ (democracy), quân chủ (monachy), chính thể đầu sỏ (oligarchy), vốn đã đồi bại, tham nhũng và giờ đây, nhà nước nên được điều hành bởi tầng lớp những người cầm quyền mới, đó là các triết gia được giáo dục tốt. Các triết gia là những người được đào tạo từ thời trẻ và được lựa chọn dựa trên năng lực: "những người có kỹ năng đặc biệt về quan sát tổng quan xã hội". Aristốt - triết gia Hy Lạp cổ đại trong tác phẩm Chính trị (The Politic) quả quyết rằng về bản chất, con người là một động vật chính trị. Ông cho rằng, luân thường và chính trị có sự liên kết chặt chẽ với nhau và một đời sống thật sự đạo đức chỉ có thể có ở những người tham gia vào chính trị.

Giống như Platôn, Aristốt thấy rằng có nhiều hình thức nhà nước khác nhau và ông cho rằng hình thức đúng của nhà nước có thể biến thành một hình


thức nhà nước lệch lạc, nơi mà thể chế bị mục nát. Theo ông, chế độ quân chủ, có một người cai trị, sẽ biến thành chuyên chế; chế độ quý tộc, với một nhóm nhỏ người cai trị, sẽ biến thành chính thể đầu sỏ; xã hội có tổ chức do nhiều người dân cùng cai trị thì sẽ biến thành chế độ dân chủ trị. Theo nghĩa này, Aristốt không dùng từ "democracy" hay nghĩa rộng như hiện nay, mà nó mang nghĩa đen là demos, hay thường dân cai trị. Một cái nhìn chính xác hơn về dân chủ mà Aristốt đề cập đến chỉ là chính quyền quần chúng (ochlocracy).

N.Machiavelli, nhà lý luận chính trị người Ý thời Phục Hưng, trong tác phẩm Quân vương (The Prince) của mình đã đ ề nghị cần có một tầm nhìn thế giới về chính trị để miêu tả các phương pháp thực tế cho chế độ chuyên quyền để giành và giữ quyền lực chính trị. Ông thường được xem là người phản đối quan điểm đạo đức truyền thống đối với người cầm quyền. Đối với Machiavelli, không có nền tảng đạo đức mà ở đó, việc phân xử sự khác nhau giữa việc sử dụng quyền lực hợp pháp hay bất hợp pháp. Thuật ngữ được Machiavellian sử dụng đó cũng có nghĩa là hành vi chính trị xảo quyệt, nó đề cập đến một loại người thiếu đạo đức, hay dùng các thủ thuật mánh khoé để cố thủ quyền hành. Học thuyết của ông đã được nhiều nhà lãnh đạo học

tập và thực hành, kể cả những nhà lãnh đạo chuyên chế toàn trị, những người đã biện hộ cho những hành động tàn bạo của mình và coi đó là vì mục đích an toàn quốc gia.

Tuy nhiên, các quan niệm có liên quan với VHCT được biết đến nhiều hơn đối với người phương Tây trong một số công trình nghiên cứu của các nhà tư tưởng nổi tiếng như G.Bôđanh, S.L.Môngtécxkiơ, v.v... khi việc nghiên cứu VHCT gắn liền với đạo đức và lịch sử. Tuy nhiên, khái niệm VHCT lần đầu tiên được biết đến trong tác phẩm Tư tưởng triết học lịch sử của loài người (1784 - 1791) của I.G.Gerzer, khi VHCT được nghiên cứu trong mối quan hệ với tư tưởng, dư luận xã hội, tâm lý cá nhân và tính cách dân tộc.


J.S.Mill, sinh vào thế kỷ XIX, là người đi tiên phong trong việc dùng khái niệm tự do trong chính trị. Ông đã thấy được rằng dân chủ sẽ là sự phát triển chính trị chủ chốt trong thời đại của ông. Trong tác phẩm Luận về tự do (On Liberty) của mình, ông đã cổ vũ cho việc bảo vệ tốt hơn các quyền cá nhân và chống lại ảnh hưởng của nhà nước và sự cầm quyền của đa số. J.S. Mill cho rằng tự do là quyền quan trọng nhất của loài người. Có ý kiến cho rằng cuốn Luận về tự do như là một lời bảo vệ hùng hồn và mạnh mẽ nhất cho chủ nghĩa tự do. Tư tưởng VHCT của Mill là một nền chính trị tự do.

Đến những năm 50 của thế kỷ XX, nhà chính trị học Mỹ G.Almond đã đưa khái niệm VHCT vào khoa học chính trị. G.Almond đã tập trung nghiên cứu hành vi chính trị của các cá thể, phân tích xem động cơ hành động của họ là gì, từ đó định nghĩa VHCT là tập hợp các lập trường và các xu hướng cá nhân của những người tham gia trong một hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ quan làm cơ sở hành động chính trị và làm cho hoạt động chính trị có ý nghĩa. Năm 1956, trong tác phẩm Các hệ thống chính trị so sánh (Comparative Political Systems) của mình, G.Almond cho rằng VHCT gồm các yếu tố về nhận thức, tình cảm và giá trị. Nó hàm chứa nhận thức và ý kiến, quan niệm giá trị và tinh thần đối với chính trị. Đáng kể nhất phải nói đến tác phẩm Văn hóa công dân (The Civic Culture), (1963), của các nhà chính trị học Mỹ S.Verba và G.Almond - tác phẩm này có ý nghĩa kinh điển cho nghiên cứu về VHCT ở phương Tây cho đến nay. Tác phẩm của D.Kavanagh với nhan đề Văn hóa chính trị, London, Basinstocke, Macmillan, 1972 và các công trình nghiên cứu của L.Pye, T.Pason và E.Silzer cũng có những đóng góp đáng kể cho sự hình thành và phát triển các quan niệm, khái niệm và cấu trúc của VHCT. Tuy nhiên, cần nói rằng những nghiên cứu của G.Almond và S.Verba về VHCT nói chung và văn hóa công dân nói riêng thực sự đặt nền móng cho những nghiên cứu hiện đại về VHCT trên thế giới.


C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tuy chưa đưa ra một khái niệm đầy đủ về VHCT nhưng đã đề cập tới một số nội dung cơ bản làm cơ sở cho việc tiếp cận khái niệm này một cách khoa học như vấn đề đấu tranh giành quyền lực, vấn đề cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, vấn đề xây dựng con người XHCN, vấn đề dân chủ XHCN. Mục đích của VHCT XHCN là hình thành những người cộng sản chân chính, khâu đầu tiên là hình thành ở con người đó tri thức chính trị cơ bản, có hệ thống mà cốt lõi của nó là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chính trị. Đó là trình độ ý thức hệ, tư duy chính trị, phân tích, khái quát hóa kinh nghiệm xã hội, khả năng nhận thức những hiện tượng mới; là tâm lý, tình cảm, niềm tin đối với những tri thức chính trị và khả năng hoạt động chính trị hàng ngày. VHCT ở phương Tây hiện nay được kích thích bởi nhiều nhân tố khách quan, như sự phát triển của kinh tế, của "văn hóa kinh tế", của triết học và sự phát triển của bản thân nền văn hóa đó.

Cho đến nay, VHCT và những vấn đề, những chủ đề có liên quan đến VHCT đặt ra cho giới nghiên cứu vẫn là nguồn gốc của khái niệm VHCT; có những cách tiếp cận cơ bản nào đối với khái niệm VHCT; khái niệm VHCT có liên quan như thế nào đối với các lý thuyết phát triển xã hội hiện đại; tiếp cận VHCT chỉ ở nhận thức, thái độ, niềm tin hay còn hành vi; VHCT có những đặc trưng nào; v.v... Trong hơn ba thập kỷ qua, cuộc tranh luận về VHCT từ góc độ của các nền dân chủ đa nguyên ở phương Tây diễn ra với những khuynh hướng lý giải khác nhau. Ở các nước thuộc Liên Xô trước đây cũng diễn ra những trao đổi có tính học thuật về VHCT với tính cách một bộ phận cấu thành của đời sống chính trị ở các nước đang chuyển đổi này. Có thể nêu một số nghiên cứu của các tác giả Nga và Đức như: Batalov E.Ia với Văn hóa chính trị của xã hội Mỹ hiện đại, Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1990; Pivovarov Iu.S. với Văn hóa chính trị: phương pháp luận nghiên cứu, Nxb Inhion, Mátxcơva, 1994; Mayer

G. Với Nước Đức - một quốc gia hai nền văn hóa chính trị, Tạp chí khoa học Trường Đại học tổng hợp Mátxcơva, số 4, năm 1994, v.v...


Nhìn chung, VHCT trên thế giới được tiếp cận nghiên cứu từ hai cách chính - tiếp cận từ góc độ vĩ mô (tổng thể luận) và từ góc độ vi mô (hành vi luận). Cách tiếp cận tổng thể luận nghiên cứu VHCT của những quốc gia, giai cấp hay cộng đồng đông người nhất định. Cách nghiên cứu này nhằm đưa ra các triết lý về VHCT và xây dựng các mô hình VHCT mong đợi phục vụ lợi ích của các giai cấp cầm quyền trong xã hội. Cách nghiên cứu này thường được sử dụng phổ biến trong giới nghiên cứu theo trường phái mác xít. Trong khi đó, cách tiếp cận nghiên cứu VHCT từ góc độ vi mô lại hướng vào các hành vi cá nhân hay hành vi của các nhóm trong đời sống chính trị hiện thực. Cách nghiên cứu này tìm cách giải thích nguyên nhân của sự khác biệt trong hành động của mỗi cá nhân hay nhóm khi tham gia vào đời sống chính trị từ góc độ văn hóa. Cách nghiên cứu này thường được sử dụng phổ biến trong giới nghiên cứu chính trị học phương Tây.

Chung quy lại, VHCT, dù được triển khai nghiên cứu từ cách tiếp cận nào, đều trở thành đối tượng nghiên cứu của các môn khoa học chính trị, trong đó có chính trị học. Các nghiên cứu về VHCT đều hướng tới lý giải các giá trị có tính bền vững, ổn định và trở thành nền tảng mang tính định hướng nằm ở tầng sâu của các sự kiện và hoạt động chính trị.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu, giảng dạy về VHCT ở Việt Nam ngày càng được quan tâm. Từ nhiều góc độ, các nhà khoa học đã đề xuất nhiều cách tiếp cận, khám phá và chỉ ra những đặc trưng, đặc điểm của VHCT Việt Nam truyền thống và hiện đại. Trong đó khoảng 10 năm trước lại đây, việc nghiên cứu về VHCT cũng được nhiều tác giả quan tâm và đã có nhiều công trình làm rõ bản chất, nội hàm khái niệm của VHCT, những vấn đề và những nội dung xây dựng và phát triển VHCT, đặc biệt là vận dụng VHCT vào phát triển con người chính trị, đào tạo cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Có thể kể đến một số công trình


đã được công bố như sách, bài viết trên các tạp chí và trong các kỷ yếu đề tài khoa học sau đây:

Một số sách, giáo trình, giáo khoa đã xuất bản:

Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay của PGS, PTS. Phạm Ngọc Quang (chủ biên) (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách làm sáng tỏ nội dung khoa học của phạm trù VHCT và vai trò của nó trong hoạt động chính trị, trong quá trình xây dựng CNXH, trong việc nâng cao năng lực và bản lĩnh lãnh đạo của đội ngũ cán bộ; từ đó, đề ra phương hướng bồi dưỡng VHCT cho cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam. Đây là một công trình nghiên cứu có ý nghĩa, phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập và là tài liệu tham khảo bổ ích. Song, cuốn sách chỉ mới nêu lên vấn đề, còn việc giải quyết vấn đề thực sự khoa học đòi hỏi phải dày công nghiên cứu hơn nữa.

Văn hóa chính trị Việt Nam, truyền thống và hiện đại của GS. Nguyễn Hồng Phong (1998), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược thuộc Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX - 06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội". VHCT truyền thống Việt Nam là một đề tài của công trình, phân tích ảnh hưởng lớn và lâu dài của Khổng giáo nguyên thuỷ tới VHCT truyền thống ở Việt Nam, tác giả nhấn mạnh những truyền thống nhân văn, dân chủ mà những tư tưởng tiêu biểu là nhân nghĩa; lòng yêu nư ớc; lòng dân là ý trời; dân là quý; dân là gốc nước; vua là thuyền, dân là nước, nước chở thuyền, nhưng nước cũng làm đắm thuyền. Tác giả đã nghiên cứu sự biến đổi của tương quan giữa quốc gia - công hữu và tư hữu về ruộng đất trong xã hội Việt Nam suốt thời trung đại. Tác giả khẳng định đặc trưng của văn minh Việt là Làng - Nước (làng - nước chứ không phải là nước - nhà như Trung Hoa).

Văn hóa Việt Nam - truyền thống và hiện đại của Lê Huy Hòa - Hoàng Đức Nhuận (2000), Nxb Văn hóa, Hà Nội. Cuốn sách tập hợp những bài viết

Xem tất cả 176 trang.

Ngày đăng: 28/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí