tổ chức XTTM không phải là doanh nghiệp. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, thì thương mại nói chung và XTTM nói riêng, cần được xem xét dưới giác độ là thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Theo đó hệ thống các văn bản luật và dưới luật về thương mại và liên quan đến thương mại cần được hoàn thiện và bổ sung một cách đồng bộ.
Thứ hai, về nội dung và phương thức các hoạt động XTTM . Hiện nay các hoạt động XTTM vĩ mô chủ yếu tập trung vào một số chương trình, đề án như phát triển thương hiệu quốc gia, thông tin thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp trong khuôn khổ chương trình XTTM quốc gia. Kết quả thực hiện các chương trình trên trong vài năm quan đã cho thấy, mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng các chương trình đề án XTTM mới chỉ tập trung hỗ trợ các hoạt động XTTM truyền thống, ngắn hạn, qui mô nhỏ như khảo sát thị trường, hội chợ triển lãm, cung cấp thông tin cơ bản…thiếu các chương trình có qui mô lớn, dài hạn có vai trò là “đầu tàu” để tạo sức đột phá trong hoạt động XTTM. Các hoạt động XTTM hiện nay mới chỉ tập trung chủ yếu vào việc hỗ trợ xúc tiến XK đối với sản phẩm XK cơ bản, chưa mở rộng trong các lĩnh vực hết sức đa dạng và quan trọng khác của hoạt động XTTM theo nghĩa rộng như: xúc tiến đầu tư, nhập khẩu, xúc tiến với dịch vụ, chuyển giao công nghệ… Bên cạnh đó trong thời gian vừa qua còn duy ý trí, không xuất phát từ yêu cầu thực tế của doanh nghiệp nên không thu hút được doanh nghiệp tham gia gây lãng phí về nguồn lực.
Thứ ba, về hệ thống các tổ chức thương mại. Hiện nay hệ thống XTTM của chúng ta gồm có:
1. Các tổ chức XTTM của chính phủ: Cục XTTM, các trung tâm XTTM..
2. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và các hiệp hội doanh nghiệp vừa thực hịên chức năng đại diện cho các doanh nghiệp, vừa thực hiện XTTM hỗ trợ.
3. Các tổ chức quốc tế như, các tổ chức phi chính phủ, triển khai các hoạt động XTTM dưới hình thức các dự án các chương trình…
4. Các công ty cung ứng dịch vụ tư nhân
5. Các tổ chức XTTM của các doanh nghiệp lớn hình thức các trung tâm, bộ phận XTTM, marketing…
Hệ thống này còn có sự lẫn lộn giữa chức năng quản lí nhà nước về XTTM với việc tổ chức các hoạt động XTTM hỗ trợ cho doanh nghiệp. Về tổng thể, hệ thống còn bộc lộ tình trạng chồng chéo, lãng phí, kém hiệu quả.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Cam Kết Của Việt Nam Khi Gia Nhập Wto Về Lĩnh Vực Ngoại Thương
- Thực Trạng Hoạt Động Xnk Việt Nam 1 Năm Sau Gia Nhập Wto
- Những Thành Tựu Đạt Được So Với Trước Khi Gia Nhập Wto
- Cơ Cấu Hàng Của Việt Nam Phù Hợp Với Thị Trường
- Quan Điểm Của Đảng Và Nhà Nước Về Phát Triển Ngoại Thương Việt Nam
- Chiến Lược Phát Triển Ngoại Thương Việt Nam Thời Kì 2001-2010, Tầm Nhìn 2020
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
2.3.1.3. Còn nhiều cơ chế chính sách chưa hợp lí
Môi trường kinh doanh tại Việt Nam ngày càng thông thoáng đặc biệt là sau khi gia nhập, thực hiệ các cam kết của WTO, tuy nhiên vẫn tồn tại một số rào cản gây khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập tham gia buôn bán kinh doanh ngoại thương.
Thứ nhất, cách tính chi phí hiện tại không phù hợp với cách tính chi phí của WTO. Ví dụ như một số chi phí WTO không cho là trợ cấp như chi phí cho cán bộ đi học, làm nhà cho công nhân… được tính vào giá thành. Nhưng chính sách thuế của Việt Nam lại coi đây là những chi phí không hợp lí và không được tính vào giá thành sản phẩm. Vì thế cần điều chỉnh cách tính chi phí sao cho hợp lí, đúng theo tiêu chuẩn quốc tế, chống lại các vụ kiện bán phá giá.
Thứ hai, theo tổng cục Hải quan, qua 2 năm thực hiện Nghị định 12/2006/NĐ- CP ngày 23/1/2006 của chính phủ thi hành luật Thương mại và các qui định của các cấp có thẩm quyền đã phát sinh một số khó khăn vướng mắc trong quá trình làm thủ tục Hải quan cho hàng hoá XNK. Các hạn chế được thể hiện như sau: Đầu tiên, là việc ban hành danh mục hàng hóa có mã
số HS của các bộ ngành quá chậm. Đến tháng 10/2007 mới có 20/63 danh mục có mã số HS còn 43/63 danh mục chưa ban hành. Việc chậm ban hành hay ban hành mà không có mã số HS đã gây khó khăn cho các cơ quan Hải quan và doanh nghịêp trong thực hiện, nhất là việc chuẩn hoá Danh mục theo yêu cầu áp dụng quản lý Hải quan hiện đại và thủ tục hải quan điện tử. Ngoài ra, trong việc XK khoáng sản, đây là mặt hàng phải đảm bảo điều kiện và tiêu chuẩn được qui định Thông tư 02/2006/TT-BCN của Bộ Công Thương, nhưng việc xác định mỏ nằm trong hay nằm ngoài qui hoạch cân đối phục vụ cho nhu cầu chế biến trong nước, gây nhiều khó khăn cho Hải quan khi làm thủ tục XK. Thêm nữa, đối với việc kiểm tra an toàn thực phẩm của một số mặt hàng thuộc danh mục kèm theo quyết định số 818/QĐ-BYT, khi doanh nghịêp NK khai báo không sử dụng vào mục đích thực phẩm thì vẫn chưa có cơ chế kiểm soát rõ ràng là có cho miễn kiểm tra hay không, thủ tục miễn kiểm tra như thế nào.Nếu cơ quan thẩm quyền cho miễn kiểm tra thì việc quản lí trong nội địa như thế nào để tránh sử dụng lại, gây hậu quả cho xã hội. Chính vì thế, Bộ y tế cần sớm ban hành những văn bản có tính pháp lí đầy đủ để kiểm soát với hàng hoá thực phẩm nhập khẩu không sử dụng vào mục đích thực phẩm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp XNK đồng thời vẫn quản lí chặt mặt hàng này. Liên quan đến vấn đề kiểm dịch, qui định về việc cấp giấy phép chứng nhận kiểm dịch tại Quyết định 48/2007/QĐ- BNN ngày 29/5/2007 của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn đối với các vật thể phải phân tích nguy cơ dịch hại trước khi nhập khẩu vào Việt Nam là một qui định có tính chất quản lí chính sách XNK mặt hàng. Tổng cục Hải quan đã đề nghị Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn cầ đưa sang diện quản lí chính sách XNK theo Nghị định 12.
Cũng theo Tổng cục Hải quan về kiểm tra chất lượng hàng hoá NK, vẫn còn thiếu văn bản hướng dẫn chung đối với quyết định 50/2006/QĐ-TTg.
Các bộ quản lí chuyên ngành ban hành nhiều văn bản riêng nên cơ quan Hải quan khó theo dõi thực hiện.
2.3.2. Hạn chế xét trên góc độ kinh tế vi mô
2.3.2.1. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoại thương còn hạn chế
Gia nhập vào sân chơi chung WTO, đứng trước sức ép cạnh tranh trên toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Ngoại thương nói riêng đã bộc lộ một số hạn chế về năng lực cạnh tranh.
Thứ nhất, là về qui mô doanh nghiệp, nhìn chung các doanh nghiệp của chúng ta còn khá nhỏ lẻ, không có tiềm năng lớn về tài chính cũng như công nghệ. Chính vì thế khi cạnh tranh chúng ta sẽ gặp phải một số bất lợi. Đặc biệt trong một số vụ kiện chống bán phá giá đối với hàng hoá của Việt Nam, tuy đã là thành viên của WTO, được áp dụng những phương thức giải quyết tranh chấp của WTO, nhưng các doanh nghiệp của chúng ta vẫn không tận dụng được tối đa lợi thế này do không có đủ kinh phí để theo kiện. Ngoài ra, tiềm lực về công nghệ cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp XNK Việt Nam. Công nghệ còn lạc hậu đã làm giảm chất lượng sản phẩm XK, giảm tỷ lệ giá trị gia tăng trong giá thành, gây mất lòng tin với khách hàng quốc tế. Hiện nay, một số mặt hàng XK vẫn áp dụng phương thức sản xuất thủ công, chưa đạt chuẩn quốc tế. Điều này có thể bị các đối tác cho là vi phạm một số rào cản kĩ thuật và trả về nước, gây thiệt hại không nhỏ.
Thứ hai, về công tác quảng cáo giới thiệu sản phẩm ra thị trường quốc tế chưa được quan tâm đúng mức trong các doanh nghiệp ngoại thương Việt Nam. Các doanh nghiệp trong thời gian vừa qua không chú trọng vào việc nghiên cứu thị trường, quảng bá sản phẩm tới thị trường quốc tế vì vậy hàng hoá của chúng ta dù chất lượng tốt, giá cả phải chăng nhưng vẫn không chiếm lĩnh được thị trường. Bên cạnh đó, công tác tìm hiểu thị trường, phối
hợp với tham tán thương mại để nắm chắc thông tin thị trường vẫn chưa đước áp dụng đúng mức.
Tóm lại trong thời gian tới các doanh nghiệp Việt Nam nên sớm mở rộng đầu tư, năng lực cạnh tranh và tạo động lực để đẩy nhanh hơn nữa quá trình cải cách của Việt Nam phù hợp với tình hình mới. Đặc biệt, các doanh nghiệp trong nước cũng phải đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá để tăng sức cạnh tranh mới.
2.3.2.2. Chất lượng sản phẩm còn nhiều điều đáng quan tâm
Chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng trong hoạt động XNK, đặc biệt là đối với các thị trường tương đối khó tính như EU, Nhật Bản. Đảm bảo chất lượng hàng hoá đồng nghĩa với việc chúng ta nâng cao uy tín Việt Nam trên thị trường quốc tế, giành được niềm tin của khách hàng đối với các sản phẩm của Việt Nam. Tuy nhiên sau 1 năm gia nhập WTO, vấn đề chất lượng vẫn còn nhiều điều đáng nói và đáng phải quan tâm.
Nông nghiệp được coi là lĩnh vực chịu nhiều tác động nhất trong quá trình gia nhập tổ chức WTO. Tuy nông sản cũng là một trong các mặt hàng XK chủ lực của Việt Nam, nhưng chất lượng hàng nông sản của chúng ta còn nhiều vấn đề đáng phải bàn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do trình độ sản xuất của nông dân còn ở mức độ thấp, bộc lộ nhất là giống cây trồng vật nuôi chưa được kiểm dịch đầy đủ và cũng chưa kiểm soát nguồn gốc. Thứ hai là chưa kiểm soát tốt phân bón hoá học, phân bón. Thứ ba là công tác bảo quản sau khi thu hoạch, bao bì, nhãn hiệu hàng hoá thương hiệu vẫn chưa đáp ứng theo chuẩn mực yêu cầu của quốc tế trong quá trình hội nhập. Thứ tư là qui mô sản xuất nhỏ lẻ, bình quân diện tích đất còn rất thấp, khoảng 0.7-1 ha/ hộ, vì vậy muốn sản xuất với qui mô lớn, chất lượng đồng đều là rất khó. Thứ năm là giá thành sản phẩm vẫn còn cao, chất lượng
an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được quan tâm đầy đủ khi đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế.
Về các sản phẩm thuỷ sản, đây là mặt hàng mà chúng ta xuất khẩu khá nhiều sang các thị trường EU, Hoa Kỳ. Với việc các nước tăng cường yêu cầu thắt chặt vấn đề VSATTP nên các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối đầu với những khó khăn to lớn. Nếu như chúng ta vẫn duy trì qui mô và phương thức nuôi trồng như hiện nay ( nhỏ lẻ, tự phát, không theo qui chuẩn) sẽ khó có thể đáp ứng được yêu cầu của các thị trường trên thề giới, đặc biệt là thị trường Nhật Bản và EU.
Trong năm tiếp theo gia nhập WTO, các doanh nghiệp ngoại thương Việt Nam phải chú trọng hơn nữa vấn đề chất lượng sản phẩm. Cần nghiên cứu kĩ yêu cầu của thị trường nhằm tìm ra phương thức đáp ứng một cách hiệu quả nhất.
2.3.2.3. Chưa khai thác hết thị trường tiềm năng
WTO với 150 quốc gia thành viên, là một thị trường hứa hẹn đầy tiềm năng cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Tuy nhiên trong năm vừa qua, mặc dù thị trường đã không ngừng được mở rộng nhưng xét một cách tổng thể, chúng ta vẫn chưa thực sự khai thác hết tiềm năng thị trường của các thành viên WTO khác.
Nhật Bản được đánh giá là thị trường tiềm năng cho hàng XK Việt Nam. Nếu cố gắng hơn nữa, trong thời gian tới nước ta có thể đạt mục tiêu XK tăng trên 17% và có thể đạt tới 19-20%, vượt mục tiêu mà Bộ Công Thương đề ra. Trong những năm gần đây, XK của Việt Nam chỉ chiếm khoảng trên dưới 0.9% trong tổng số hàng mà Nhật Bản phải nhập từ nước ngoài. Như vậy cho thấy tiềm năng ở thị trường Nhật Bản còn rất lớn.Thời
gian vừa qua, các doanh nghiệp đã có nhiều biện pháp xúc tiến thương mại thúc đẩy quảng bá vào thị trường này rồi nâng cao chất lượng sản phẩm, thế nhưng kết quả thực tế mang lại vẫn chưa cao do chất lượng sản phẩm XK liên tục vi phạm qui định của Nhật bản nên kim ngạch giảm sút. Hơn nữa thị trường Nhật Bản hội tụ rất nhiều đối thủ cạnh tranh nên để thắng được phải áp dụng cạnh tranh trên bình diện hàng hoá, doanh nghiệp và quốc gia.
2.3.2.4. Chưa chú trọng vào xây dựng thương hiệu
Hiện nay phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam không có thương hiệu lớn và không tập trung đúng mức vào vấn đề xây dựng thương hiệu. Tại các trung tâm thương mại lớn của Việt Nam nhưng lại có rất ít thương hiệu Việt Nam, thậm chí chỉ tính chưa hết đầu ngón tay. Trong khí đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng không chú trọng vào việc hoạch định chiến lược xây dựng thương hiệu. Mặc dù Cục xúc tiến thương mại đã phát động rất nhiều hoạt động nhằm xây dựng thương hiệu nhưng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn không quan tâm đúng mức. Tại Việt Nam có khoảng 250.000 doanh nghiệp tư nhân và 2000 doanh nghiệp nước ngoài [28] , thế nhưng có rất ít doanh nghiệp xây dựng được thương hiệu. Việt Nam chưa thực sự có một doanh nghịêp nào có thương hiệu lớn mạnh trên qui mô toàn thế giới. Không những vậy, xét trên bình diện khu vực doanh nghiệp nước ta cũng chưa có thương hiệu uy tín, được người tiêu dùng tin tưởng.
2.4. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG NĂM 2008
2.4.1. Mục tiêu đề ra trong năm 2008
Năm 2008, kinh tế thế giới dự báo sẽ tăng trưởng ở mức cao. Cùng với tăng trưởng kinh tế, các hạt động thương mại đầu tư du lịch … sẽ tiếp tục sôi động. Là năm thứ 2 Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động XNK nước ta trong năm 2008 sẽ tiếp tục phát triển hơn, tuy chưa có những đột phá lớn
nhưng kim ngạch lẫn qui mô thị trường vẫn tiếp tục mở rộng.Trong báo cáo của Chính Phủ tại kì họp thứ hai. Quốc Hội khoá XII đã xác định mục tiêu cụ thể về XNK trong năm 2008 là:
- Kim ngạch XK đạt 57.6 -58.6 tỷ USD, tăng 20-22% so với năm 2007. Trong đó kim ngạch XK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( không bao gồm dầu thô) đạt 24.8 tỷ USD, chiếm trên 42% tổng kim ngạch XK, tăng 27.2% so với năm 2007.
- Cơ cấu XK: Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng 14.9%; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng 30%; nhóm hàng lâm sản tăng 17.9% so với năm 2007.
- Thị trường XK lớn nhất của Việt Nam năm 2008 sẽ tiếp tục là thị trường Mỹ, chiếm tỷ trọng 21% và thị trường EU với tỷ trọng 20%, tiếp đến là thị trường ASEAN (16%), và Nhật Bản ( 14%).
- Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2008 dự kiến đạt gần 7 tỷ USD, tăng 16.8% so với năm 2007.
- Nhập khẩu đạt 68.4- 69.5 tỷ USD, tăng 20-22% so với năm 2007; trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 27.5 tỷ USD, chiềm gần 40% tổng kim ngạch NK và tăng 31% so với năm 2007.
- Cơ cấu các mặt hàng NK nhóm hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng chiếm tỷ trọng 26.3% tổng kim ngạch NK, nhóm nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất 66.2% và nhóm hàng tiêu dùng 7.5%.
- Thị trường NK của Việt Nam năm 2008: Các mặt hàng nguyên nhiên liệu cơ bản vẫn nhập từ thị trường Châu Á (Chiếm tỉ trọng khoảng 75- 85%) tiếp theo là EU và Châu Mĩ. Ưu tiên nhập khẩu những công nghệ nguồn từ những nước tiên tiến.
- Kim ngạch NK dịch vụ năm 2008 dự kiến đạt khoảng 7.6 tỷ USD, tăng 18.9% so với năm 2007.