MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắc Ninh là một vùng đất cổ có lịch sử phát triển lâu đời. Nơi đây từ hàng ngàn năm trước đã hình thành nên làng xóm, khu vực quần cư đông đúc. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, Bắc Ninh là “Cái nôi” trưởng thành của người Việt cổ. Ở đây, đã xuất hiện nhiều di tích, di chỉ có niên đại thời kỳ Văn hóa Đông Sơn và Tiền Đông Sơn.
Trong một ngàn năm Bắc thuộc, vùng đất Bắc Ninh thuộc Giao Châu thời thuộc Hán với Luy Lâu (Nay là Thuận Thành - Bắc Ninh) là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Giao Châu, sánh ngang với Bành Thành và Lạc Dương (Trung Quốc). Đến thời Tùy (TK VI, VII), Luy Lâu vẫn là một trong những trung tâm Phật giáo quan trọng, gần đây, các nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện được văn bia, di vật quý của Phật giáo thời kỳ này. Trong tương lai, nếu tiến hành khai quật mở rộng khu vực Luy Lâu nói riêng và nhiều di tích Phật giáo quan trọng của tỉnh Bắc Ninh nói chung có lẽ còn có nhiều phát hiện thú vị.
Thời kỳ độc lập tự chủ, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Phật giáo phát triển mạnh mẽ cùng nhiều ngôi chùa nổi tiếng xuất hiện bởi Bắc Ninh là quê hương của nhà Lý
- một triều đại tôn sùng Phật giáo. Có thể nói từ trước triều đại nhà Lý (Thời Đinh- Tiền Lê), đã xuất hiện nhiều vị cao tăng từng trụ trì nhiều ngôi chùa trên đất Diên Uẩn - Thiên Đức - (Bắc Ninh). Rất tiếc, những văn bia Phật giáo của thời kỳ Đinh - Tiền Lê và triều đại nhà Lý trên đất Bắc Ninh đến nay không còn lưu giữ được. Qua một số tư liệu văn bia mới phát hiện cho biết, sang thời Trần, nhiều ngôi chùa ở tỉnh Bắc Ninh cũng đã được hình thành. Thiền phái Trúc Lâm thời Trần rất phát triển ở nhiều nơi, trên một địa bàn rộng lớn trong đó tỉnh Bắc Ninh cũng là nơi dừng chân tu đạo của Tam Tổ (Trần Nhân Tông, Huyền Quang, Pháp Loa) cùng các vị cao tăng, học sĩ đã tham gia soạn bia, trùng tu chùa chiền.
Đánh giá về vị trí địa chính trị của Bắc Ninh trong lịch sử, nhà nghiên cứu Phạm Thị Thùy Vinh viết: “... Có lẽ, do điều kiện lịch sử địa lý như vậy, nên trong lịch sử, Kinh Bắc đã từng là kinh đô của các triều đại: Thục An Dương Vương năm 257- 208 trước công nguyên tại xã Cổ Loa, huyện Đông Ngàn; Nhà Tiền Lý (từ năm 544- 603) tại Long Biên, Ngô Quyền sau chiến thắng quân Nam Hán trên sông
Bạch Đằng, lại khôi phục lại kinh đô Cổ Loa. Cũng chính từ điều kiện tự nhiên có nhiều thuận lợi, đã góp phần đưa Kinh Bắc trở thành một vùng đất văn hiến của cả nước mà tiêu biểu nhất là sự ra đời của vương triều Lý. [146; tr 47].
Sang thời Lê, đặc biệt vào thời kỳ Lê Trung hưng (Tk XVII - XVIII), xã hội có nhiều biến động, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, đây cũng là thời kỳ ở Bắc Ninh xuất hiện nhiều thương nhân giàu có, nhiều đại địa chủ góp tiền của hưng công xây dựng nhiều ngôi chùa khang trang bề thế. Bên cạnh các đại địa chủ góp công sức xây dựng chùa và những cơ sở tín ngưỡng, nhiều bậc Vương công, Quận chúa cũng đứng ra tổ chức xây dựng, trùng tu chùa trở thành những đại danh lam nổi tiếng, như Chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Phật Tích … và nhiều ngôi chùa nổi tiếng khác.
Đặc biệt, nguồn tư liệu văn bia Phật giáo Tk XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh hiện còn lưu giữ tại các di tích trong tỉnh với một số lượng lớn chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Theo thống kê bước đầu của chúng tôi, hiện nay số lượng văn bia Phật giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh số lượng hơn 382 văn bia đã được in dập, lưu trữ trong viện Nghiên cứu Hán Nôm. Trên thực tế, số lượng có lẽ còn lớn hơn. Đồng thời với 174 văn bia do EFEO (sưu tầm) và 208 văn bia do VNCHN (sưu tầm) với số lượng hàng trăm ngôi chùa có niên đại từ Tk XVII - XVIII về trước. Đây là nguồn sử liệu quý, cần được khai thác, tập hợp để trở thành một chuyên khảo, công trình nghiên cứu quy mô về văn bia Phật giáo của Bắc Ninh thời kỳ này. Nếu những tư liệu này được nghiên cứu cụ thể, tường tận và quy mô có lẽ sẽ hứa hẹn nhiều kết quả tốt, đáp ứng như cầu tìm hiểu trên nhiều lĩnh vực, không chỉ trên lĩnh vực Phật giáo mà còn góp phần tìm hiểu về kinh tế, văn hóa, xã hội của Tỉnh Bắc Ninh Tk XVII - XVIII … Xuất phát từ những ý nghĩa nêu trên nên tác giả đã quyết định chọn đề tài: Nghiên cứu văn bia Phật giáo Tk XVII - XVIII (Ở tỉnh Bắc Ninh) để làm luận án tiến sĩ của mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu văn bia Phật giáo thế kỷ XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh - 1
- Vị Trí Địa Lý Và Lịch Sử Hình Thành Tỉnh Bắc Ninh
- Những Nghiên Cứu Về Văn Bia Và Văn Bia Tỉnh Bắc Ninh
- Những Vấn Đề Đặt Ra Cho Việc Nghiên Cứu Văn Bia Phật Giáo Thế Kỷ Xvii - Xviii Ở Tỉnh Bắc Ninh.
Xem toàn bộ 311 trang tài liệu này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trong phần: “Một số giới thuyết về văn bia Kinh Bắc thời Lê”, nhà nghiên cứu Phạm Thị Thùy Vinh đã viết: (...) “Vì thế, dù hết sức cố gắng nhưng chúng tôi cũng chưa dám cho là đã tiếp cận được toàn bộ số xã của Kinh Bắc thời Lê. Chúng tôi cũng loại trừ một số xã của huyện Lương Tài, phủ Thuận An được lên phiếu thư
mục theo địa danh thời Nguyễn, nhưng khi trực tiếp kiểm tra trên chính các thác bản bia, thì vào thời Lê nó lại thuộc xứ Hải Dương mà không phải thuộc xứ Kinh Bắc. Do vậy, số bia của các xã đó bị loại bỏ trong tập hợp của chúng tôi” [146; 52];
Như tác giả công trình Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt làng xã đã đề cập, hầu hết các địa phương trong huyện Lương Tài đã không được tác giả đề cập đến trong công trình này trong đó có những văn bia Phật giáo. Vì thế, số kết quả lượng khảo sát số lượng văn bia của huyện Lương Tài (hiện nay) với số lượng văn bia có niên đại Cảnh Hưng của huyện Lương Tài, (phủ Thuận An) chỉ có số lượng 03 bia [146; 94]. Trên thực tế, số lượng văn bia Tk XVII - XVIII ở tỉnh Bắc Ninh còn nhiều hơn thế bởi trong quá trình sưu tập văn bia ở một số làng xã đã bị bỏ sót trong suốt quá trình sưu tầm nên đã không có trong bộ sưu tập của Viện nghiên cứu Hán Nôm. Chẳng hạn gần đây, tác giả đã sưu tầm và công bố gần 60 đơn vị thác bản văn bia làng An Phú (xã An Thịnh, huyện Lương Tài, Bắc Ninh), trong đó có đến 03 bia niên đại thời Lê (TK XVII) [25] .
Khi nghiên cứu về văn bia Phật giáo Tk XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh, chúng tôi đã kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước đặc biệt công trình Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt làng xã” của Phạm Thị Thùy Vinh. Tuy nhiên, công trình này chỉ đề cập đến những văn bia có niên đại thời Lê mà cụ thể ở đây là dừng lại ở niên đại cuối cùng của vua Lê Chiêu Thống (1788). Vì thế, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu tiếp những văn bia Phật giáo có niên đại Quang Trung (1789 - 1792) và văn bia có niên đại Cảnh Thịnh (1792 - 1800) trên đất Bắc Ninh. Số lượng văn bia giai đoạn Nguyễn Tây Sơn (chỉ tính trong khoảng 1789 - 1800) tuy số lượng chỉ có hơn chục văn bia nhưng nó góp phần phản ánh trọn vẹn diện mạo lịch sử văn bia Phật giáo tỉnh Bắc Ninh thế kỷ XVII - XVIII.
Trong luận án này, mục đích của tác giả nhằm cố gắng nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của những ngôi chùa nổi tiếng trên đất Bắc Ninh trong dòng chảy lịch sử của nó đặc biệt là Tk XVII - XVIII với sự công đức của tầng lớp quý tộc gắn với công lao của một số vị trong triều đình Lê - Trịnh và một số vị cao tăng tiêu biểu trong tầng lớp tăng lữ thế kỷ XVII - XVII trụ trì ở những chùa tiêu biểu như Chùa Ninh Phúc (thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành), Diên Ứng tự (chùa Dâu, xã Thanh Khương), chùa Hàm Long (xã Nam Sơn, huyện Quế Võ)…
Qua nguồn tư liệu văn bia thế kỷ XVII - XVIII, luận án cũng làm rõ những đóng góp nổi bật trong việc công đức, xây dựng, trùng tu nhiều danh lam, cổ tự trên đất Bắc Ninh của những vị sư tổ người Việt Nam và một số vị thiền sư người Trung Quốc như: Chuyết Chuyết, Minh Hành,... cũng sẽ được tác giả đi sâu giới thiệu trong luận án này.
3. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu của luận án
+ Đối tượng nghiên cứu là văn bia Phật giáo tỉnh Bắc Ninh thế kỷ XVII – XVIII.
+ Phạm vi nghiên cứu của luận án chỉ tập trung nghiên cứu văn bia Phật giáo. Phạm vi thời gian trong 2 thế kỷ (XVII và XVIII); Phạm vi không gian được giới hạn thuộc tỉnh Bắc Ninh (hiện nay). Từ nội dung văn bia, chúng tôi sẽ tiếp tục tìm hiểu sự phát triển về số lượng các ngôi chùa trên một mảnh đất có truyền thống lịch sử lâu đời như Bắc Ninh, đồng thời qua đó sẽ nghiên cứu về sự hình thành một số ngôi chùa nổi tiếng, hành trạng các vị sư tổ, các vị cao tăng Tk XVII, XVIII cùng sự ảnh hưởng của nó đến các địa phương khác.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án dùng thao tác thống kê, định lượng, phương pháp nghiên cứu văn bản, và nghiên cứu liên ngành … Tất cả các các phương pháp này được đặt trên một phương pháp lý luận chung nhất của phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Do vậy, chúng tôi khi tiến hành nghiên cứu văn bia Phật giáo Tk XVII - XVIII phải đặt nó trong một dòng phát triển của lịch sử dân tộc, lịch sử Phật giáo Việt Nam, đặc biệt phải đặt nó trong một bối cảnh địa lý và văn hóa khu vực: Bắc Ninh cái nôi của Phật giáo Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc và cũng là một trong những trung tâm Phật giáo thời Lý - Trần. Do vậy, nghiên cứu văn bia Phật giáo trong giai đoạn này ở Bắc Ninh không thể tuyệt đối chia cắt giai đoạn như một lát cắt cơ học mà phải tìm ra được sợi dây nối kết trong dòng chảy của truyền thống, của sự kế thừa và phát triển.
5. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu chính khai thác chủ yếu là tất cả những văn bia Phật giáo (bia chùa) được sưu tầm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh (hiện nay), trong một giai đoạn cụ thể là Tk XVII
- XVIII. Những văn bia này bao gồm: Bia Hậu Phật, bia cung tiến, công đức, trùng tu, xây dựng, bia ghi về hành trạng, tiểu sử của những vị sư, bia tháp, mộ của các vị tăng, ni đã
viên tịch số lượng bước đầu khảo sát của chúng tôi cho thấy số lượng 174 văn bia do Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) sưu tầm và 208 văn bia do Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) sưu tầm. Tuy nhiên, do số lượng văn bia khá lớn nên tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu, phân tích sâu 174 tấm bia do (EFEO) sưu tầm trước đây và có tham khảo một số văn bia Phật giáo Tk XVII - XVIII của tỉnh Bắc Ninh (do VNCHN sưu tầm vào thập niên 90 của Tk XX).
- Những tư liệu văn bia, minh chuông có niên đại trước Tk XVII - XVIII sẽ có tác dụng tham khảo để tìm hiểu về lịch sử hình thành chùa và thiền phái của chùa.
- Những tác phẩm viết về lịch sử Phật giáo nói chung và tư liệu liên quan như: Các sách công cụ như: Việt Nam Phật giáo sử luận (Nguyễn Lang) [62], Thiền lâm bảo huấn [97], Thiền sư Việt Nam (Thích Thanh Từ) [99], Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Nguyễn Tài Thư, chủ biên), Bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam 3 tập (Lê Mạnh Thát) [98]…vv là những sách tham khảo không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu về văn bia Phật giáo Tk XVII, XVIII ở Bắc Ninh hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước
- Tư liệu điền dã, ghi chép của tác giả trong quá trình nghiên cứu thực tế… Rất may, trong những thác bản được in dập dưới sự tổ chức của Viện Viễn
Đông Bác Cổ (Pháp)(FEEO), văn bia trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cho đến thời điểm hiện nay chỉ tìm ra có 01 kí hiệu thác bản bị ngụy tạo (Kh: 02862) trong khi đó ở các tỉnh Hà Đông, Nghệ An, Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định có đến 514 kí hiệu thác bản bị làm ngụy tạo về niên đại[75: 23 - 33 ]. Việc nghiên cứu văn bia trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh với một nguồn tư liệu tương đối chính xác, trung thực như vậy sẽ giúp cho tác giả đỡ tốn nhiều công sức thẩm tra đồng thời tạo thêm độ chính xác, tin cậy trong kết quả nghiên cứu.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Đề tài có một số đóng góp khoa học và thực tiễn sau đây:
- Tập hợp, hệ thống, phân loại, phân bố được một cách tương đối đầy đủ về loại hình văn bia Phật giáo trong đó có văn bia Phật giáo Tk XVII - XVIII trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Qua việc nghiên cứu văn bia Phật giáo Tk XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh hiện nay, luận án góp phần vào việc tìm hiểu lịch sử phát triển của các ngôi danh lam cổ tự trên đất Bắc Ninh, góp phần vào việc quảng bá, phát huy giá trị văn hóa lịch sử cho quần chúng nhân dân, khách tham quan, du lịch.
- Luận án cũng góp phần vào việc nghiên cứu một số thiền phái Phật giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, nghiên cứu về sư tổ, các vị cao tăng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Từ những đóng góp trên, luận án cũng góp phần nhỏ vào nghiên cứu lịch sử Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận án
Luận án ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về nghiên cứu văn bia Bắc Ninh và văn bia Phật giáo - Những vấn đề đặt ra
Trong chương này, trước khi giới thiệu về vị trí địa lý, sự diên cách địa lý của tỉnh Bắc Ninh, chúng tôi tiến hành giới thuyết một số khái niệm cơ bản về văn bia, văn bia Phật giáo tình hình nghiên cứu văn bia Việt Nam nói chung cũng như văn bia Phật giáo tỉnh Bắc Ninh nói riêng, tiếp theo là một số nhận xét về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài và một số vấn đề liên quan đến định hướng nghiên cứu của luận án.
Chương 2: Khảo sát văn bản văn bia Phật giáo thế kỷ XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh
Trong chương 2 tác giả giới thiệu bước đầu về tình hình di tích Phật giáo tỉnh Bắc Ninh (hiện nay) trong bối cảnh chung của các loại hình di tích khác trong toàn tỉnh. Tiếp đến là việc khảo sát về sự phân bố văn bia Phật giảo của tỉnh Bắc Ninh theo thời gian (phân chia theo thế kỷ, theo niên hiệu) và phân chia theo không gian (theo đơn vị hành chính các huyện trong tỉnh). Trong chương này, tác giả cũng tiến hành khảo sát về đặc điểm văn bản của văn bia Phật giáo với những đặc trưng như văn tự, chữ húy, những lưu ý về văn bản học (ngụy tạo) và tác giả biên soạn văn bia.
Chương 3: Quá trình hình thành và phát triển của một số ngôi chùa tiêu biểu thế kỷ XVII – XVIII tỉnh Bắc Ninh
Trước hết, tác giả giới thiệu sơ qua về tình hình những di tích Phật giáo và những văn bia Phật giáo trước Tk XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh để thấy được sự phát
triển có tính kế thừa, tiếp nối liên tục của một số di tích Phật giáo ở tỉnh Bắc Ninh. Qua tư liệu văn bia, tác giả trình bày về quá trình xây dựng, trùng tu một số ngôi chùa tiêu biểu của tỉnh Bắc Ninh như chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Hàm Long, chùa Phật Tích... và một số ngôi chùa khác. Tác giả cũng kiến giải nguyên nhân của việc xây dựng, trùng tu ở thế kỷ XVII - XVIII là do các nguyên nhân khác nhau như: Thiên nhiên hủy hoại, chiến tranh tàn phá những ngôi danh lam cổ tự... Từ các cứ liệu của văn bia Phật giáo, tác giả cũng trình bày về quy mô, hệ thống tượng thờ,... vai trò của nó đối với đời sống cộng đồng và đặc biệt là sự đóng góp xây dựng của tầng lớp quý tộc Lê - Trịnh đối với sự phát triển của Phật giáo nói chung và các ngôi chùa lớn ở Bắc Ninh nói riêng..
Chương 4: Văn bia Phật giáo thế kỷ XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh góp phần nghiên cứu vấn đề tông phái, sư tổ và văn hóa Phật giáo
Qua các nguồn tư liệu văn bia và các tư liệu bổ trợ khác, tác giả bước đầu giới thiệu về một số vị sư tổ, hành trạng, tông phái cùng một số nét sinh hoạt văn hóa Phật giáo độc đáo của Bắc Ninh thế kỷ XVII - XVIII như Phật giáo gắn liền với tín ngưỡng nông nghiệp....
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU VĂN BIA PHẬT GIÁO VÀ VĂN BIA TỈNH BẮC NINH, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Trước hết, luận án xác định một số khái niệm đồng thời khái quát về lịch sử hình thành, diên cách tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử. Điều đó, giúp cho người đọc hình dung được bề dày lịch sử của tỉnh Bắc Ninh cũng như tình hình các di tích lịch sử của tỉnh trong đó có di tích Phật giáo. Đồng thời hệ thống tình hình nghiên cứu văn bia tỉnh Bắc Ninh và văn bia Phật giáo Bắc Ninh thế kỷ XVII – XVIII. Trên cơ sở đó, định ra vấn đề cần đi sâu nghiên cứu.
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái lược phân loại theo loại hình văn bia nói chung
Ở Việt Nam hiện nay, tồn tại hai loại hình chữ viết văn bia thời Cổ trung đại: Đó là loại hình chữ Sancrit (Phạn) của người Chăm (Chămpa) có sớm nhất có từ Tk III CN) và loại hình chữ khối vuông, chịu ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến loại hình văn hóa khối chữ vuông (chữ Hán - Nôm) được hình thành và phát triển từ lâu đời trên đất nước Trung Hoa rồi được truyền nhập vào Việt Nam qua quá trình lịch sử. Chữ Hán đã được ra đời từ thời nhà Thương (Tk XVII - XI TCN) viết trên mai rùa, xương thú… được dùng nhiều trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo và đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Theo học giả Chu Kiếm
Tâm 朱劍心 trong tác phẩm Kim thạch học 金石学 thì văn khắc trên đá được chia
làm các loại: Khắc Thạch; Bi kiệt 碑竭; Thuật đức 述德; Khắc công 刻功; Kỷ sự
紀事; Toản ngôn 纂言; Mộ chí 墓誌…
Trong văn bia Phật giáo thế kỷ XVII - XVIII tỉnh Bắc Ninh, về cơ bản chúng tôi phân chia thành các loại hình sau:
- Văn bia xây dựng, trùng tu: là những văn bia ghi về quá trình xây dựng, trùng tu một số hạng mục công trình của chùa.
- Văn bia cung tiến: Loại văn bia cung tiến thực chất có quan hệ mật thiết với loại bia trùng tu. Bởi khi trùng tu, cần phải huy động sức người, sức của, tiềm lực kinh tế. Trên thực tế, người viết văn bia muốn thể hiện sự quan tâm đến quá trình