DANH MỤC ĐỒ THỊ
Đồ thị 3.1. Chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 88
tính theo ba phương pháp 88
Đồ thị 3.2. Biến động của từng nhóm chỉ số thành phần và chỉ số phát triển bền vững tính trực tiếp từ chỉ số riêng biệt 89
Đồ thị 3.3. Biến động của từng nhóm chỉ số thành phần và chỉ số phát triển bền vững tính gián tiếp từ chỉ số thành phần 89
Đồ thị 3.4. Chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 92
Đồ thị 3.5. Biến động của từng nhóm chỉ số thành phần phát triển bền vững giai đoạn 2001 - 2010 93
Đồ thị 3.6. Biến động của chỉ số thành phần kinh tế 94
và chỉ số thành phần xã hội giai đoạn 2001 - 2010 94
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu thống kê đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam - 1
- Sự Cần Thiết Phải Thực Hiện Phát Triển Bền Vững
- Sơ Đồ Phát Triển Bền Vững Ở Việt Nam Theo Agenda-21
- Các Nghiên Cứu Về Hệ Thống Chỉ Tiêu Thống Kê Phát Triển Bền Vững Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Đồ thị 3.7. Biến động của từng chỉ số riêng biệt trong nhóm chỉ tiêu kinh tế năm 2008 - 2009 95
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển bền vững, đó không chỉ đơn thuần là quá trình phát triển kinh tế, là sự gia tăng về quy mô sản lượng mà còn là phát triển mang tính bền vững, đảm bảo sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế, xã hội và sự cân bằng của môi trường sinh thái.
Kinh tế bền vững
Xã hội bền vững
Môi trường bền vững
Phát triển bền vững
Hiện nay, phát triển bền vững là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong thời gian gần đây, vấn đề phát triển bền vững đã được nghiên cứu ở nhiều quốc gia, được đề cập ở nhiều hội nghị khu vực và thế giới. Các hội nghị đã trình bày
nhiều nội dung và mục tiêu khác nhau về phát triển bền vững trong mối quan
hệ với các nhân tố: kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế. Theo thời gian, phát triển bền vững được thống nhất với ba yếu tố chính, hay ba cực của một mô hình, đó là phát triển kinh tế, đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường (mô hình ba cực của Mohan Munasingle). Đây là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan, nội dung phát triển bền vững có tính chất quốc tế rộng lớn.
Để có thể giám sát tình hình phát triển của đất nước, Việt Nam đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê giám sát và đánh giá phát triển bền vững với những mục tiêu cụ thể. Tuy nhiên, quy mô của hệ thống chỉ tiêu này quá lớn (30 chỉ tiêu), các chỉ tiêu lại có những xu hướng và mức độ biến động khác nhau. Một số chỉ tiêu phát triển tốt theo thời gian, bên cạnh đó, một số chỉ tiêu chuyển biến xấu, tác động tiêu cực tới quá trình phát triển. Nếu chỉ nhìn vào bảng thống kê dãy số thời gian của các chỉ tiêu này, rất khó để có thể đánh giá và phân tích tổng hợp về xu hướng chung phát triển bền vững. Đã có tổ chức, cá nhân quan tâm, nghiên cứu phương pháp xây
dựng chỉ số tổng hợp đánh giá phát triển bền vững để có cái nhìn tổng quát về vấn đề này. Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn chưa có hệ thống đánh giá nào được đề xuất cụ thể và áp dụng trên thực tiễn. Từ đó, tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu "Nghiên cứu thống kê phát triển bền vững ở Việt Nam", đề xuất phương pháp tính chỉ số tổng hợp phát triển bền vững rõ ràng, cụ thể và khả thi. Trên cơ sở này, tác giả sử dụng dữ liệu sẵn có của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 để tính toán thử nghiệm. Đề tài này sẽ góp phần trả lời cho câu hỏi quản lý “Thực tế phát triển bền vững ở Việt Nam như thế nào?” và câu hỏi nghiên cứu "Sử dụng phương pháp nào để đánh giá thực trạng phát triển bền vững ở Việt Nam?".
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chung của luận án là xây dựng phương pháp tính chỉ số tổng hợp phát triển bền vững có tính khả thi để có thể áp dụng thực tế, đánh giá thực trạng phát triển ở Việt Nam. Cụ thể, nghiên cứu sẽ:
- Hệ thống hóa và làm rõ các nội dung liên quan tới phát triển bền vững, hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững
- Đề xuất phương pháp tính các chỉ số riêng biệt, chỉ số thành phần, chỉ số tổng hợp đánh giá phát triển bền vững trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu đã có ở Việt Nam
- Tính toán thử nghiệm chỉ số tổng hợp phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là phát triển bền vững. Luận án sẽ lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững, xác định nguồn số liệu tương ứng, xây dựng công thức tính chỉ số tổng hợp và vận dụng tính toán thử nghiệm, phân tích thực trạng phát triển bền vững.
Phạm vi nghiên cứu: Có nhiều phương pháp thống kê khác nhau đánh giá phát triển bền vững. Trong luận án này, tác giả đi sâu nghiên cứu quy trình, cách thức tính chỉ số tổng hợp phát triển bền vững dựa trên hệ thống chỉ tiêu thống kê sẵn có. Cụ thể:
+ Luận án tổng hợp số liệu, tính toán và phân tích chỉ số tổng hợp phát triển
bền vững trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu thống kê đã có.
+ Thời gian nghiên cứu: giai đoạn 10 năm, từ 2001 đến 2010, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm của Việt nam.
Về phương pháp nghiên cứu, luận án dự kiến sẽ sử dụng một số phương pháp thống kê sau:
- Phương pháp phân tích tư liệu. Đây là một trong các phương pháp thu thập thông tin trong điều tra xã hội học. Dựa trên các tài liệu đã có về phát triển bền vững cũng như cách tính các chỉ số tổng hợp, tác giả đưa ra cái nhìn tổng quát về đối tượng nghiên cứu, làm cơ sở thực hiện các đánh giá sau này.
- Phương pháp bảng, đồ thị thống kê: tổng hợp và biểu diễn số liệu các chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững theo thời gian.
4. Những đóng góp mới của luận án
Thông qua nghiên cứu của mình, tác giả đã có một số đóng góp tri thức mới về mặt lý luận và thực tiễn hoạt động thống kê. Cụ thể :
Thứ nhất, đề tài xây dựng phương pháp tính chỉ số tổng hợp đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam. Trong đó, tác giả phân loại các chỉ tiêu theo đặc điểm riêng có, sau đó nêu rõ cách thức tính từ chỉ số riêng biệt (xác định rõ các giới hạn trên, giới hạn dưới của từng chỉ số và áp dụng đối với từng loại chỉ tiêu), chỉ số thành phần cho tới chỉ số tổng hợp. Đây sẽ là một đóng góp mới, tích cực về mặt lý luận cho các nghiên cứu đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam trong quá trình phát triển tiếp theo.
Thứ hai, về mặt thực tiễn, đề tài đưa ra các phân tích, đánh giá thử nghiệm tính bền vững trong phát triển của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. Tác giả sử dụng số liệu thực tế đã có của Việt Nam và áp dụng công thức tính chỉ số tổng hợp vừa đề xuất để tính toán thử nghiệm, phân tích thực trạng phát triển bền vững của Việt Nam trong 10 năm qua.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp các cơ quan quản lý Nhà nước đưa ra phương pháp thống nhất để tổng hợp, đánh giá và so sánh tính bền vững trong quá
trình phát triển của đất nước. Ngoài ra, đề tài cũng mở ra hai hướng nghiên cứu tiếp theo: về xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững cho các tỉnh thành, tính toán và đánh giá trình độ phát triển của mỗi địa phương; và về việc hoàn thiện hơn nữa hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững đã có cũng như phương pháp tính chỉ số tổng hợp để có thể đánh giá thực trạng phát triển trong giai đoạn mười năm tới.
5. Kết cấu của luận án
Sau phần mở đầu, đề cập đến sự cần thiết, mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, đề tài giới thiệu tổng quan nghiên cứu. Phần nội dung chính được chia làm 3 phần:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về phát triển bền vững
Chương 2: Xây dựng phương pháp tính chỉ số tổng hợp đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam
Chương 3: Tính toán thử nghiệm và phân tích biến động chỉ số tổng hợp phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Chương 1 “Tổng quan về phát triển bền vững” sẽ gồm 4 phần chính: (1) Khái niệm phát triển và phát triển bền vững; (2) Sự cần thiết phải thực hiện phát triển bền vững; (3) Nội dung của phát triển bền vững; (4) Hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững.
1.1. Khái niệm phát triển và phát triển bền vững
1.1.1. Khái niệm phát triển
Phát triển là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản, tài liệu và trong sinh hoạt hàng ngày. Theo các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, các nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về phát triển.
Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, các nhà nghiên cứu cho rằng phát triển là việc sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của con người. Khái niệm này chủ yếu bó hẹp trong hoạt động tự cung tự cấp, coi phát triển chỉ là hoạt động đáp ứng cho cuộc sống hàng ngày của người dân: ăn, mặc, ở...
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền kinh tế nhiều nước trên thế giới ngày càng phát triển nên vào những năm 70 và 80 của thế kỷ XX, khái niệm phát triển không chỉ bó hẹp trong phạm vi sản xuất của cải vật chất phục vụ nhu cầu thiết yếu, mà còn được mở rộng là sự tăng trưởng kinh tế của các ngành trong toàn bộ nền kinh tế, trong đó có chú ý về cơ cấu kinh tế. Các quốc gia bắt đầu chú trọng vào ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất sản phẩm, tăng năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm tăng nguồn thu cho quốc gia và cho chính người dân của mình.
Tới đầu những năm 90 của thế kỷ XX, nhiều quốc gia có sự tăng truởng kinh tế nhanh chóng nhưng số nguời đói nghèo không giảm và đời sống của khoảng 40 dến 50% dân số - những nguời ở duới đáy xã hội hầu như không có gì thay đổi. Ðiều này đã làm thay đổi quan niệm về phát triển từ cực đại hoá sản luợng sang cực
tiểu hoá đói nghèo, tức là tiếp cận phát triển theo hướng quan tâm hơn tới nhân tố con người. Từ đó, phát triển được hiểu “là quá trình một xã hội đạt đến mức thoả mãn các nhu cầu mà xã hội ấy coi là thiết yếu” [21,tr.12]. Amartya Kumar Sen, nhà kinh tế học người Ấn Độ, đã được giải Nobel về kinh tế cũng chỉ ra: "...Không thể xem sự tăng trưởng kinh tế như một mục đích cuối cùng. Cần phải quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển cùng với việc cải thiện cuộc sống và nền tự do mà chúng ta đang hưởng" [2]. Quan niệm này cho thấy ngoài ý nghĩa tăng trưởng kinh tế như những thập kỷ trước, phát triển đã chú trọng và bao hàm thêm các nhân tố xã hội, nhân tố con người.
Mở rộng các nhu cầu thiết yếu và chú ý nhiều đến yếu tố xã hội, một quan niệm khác cho rằng: “Nếu coi phát triển là dđối lập với nghèo khổ thì phát triển là quá trình giảm dần, đi đến loại bỏ nạn đói ăn, bệnh tật, mù chữ, tình trạng mất vệ sinh, thất nghiệp và bất bình đẳng” [21, tr.13].
Tăng trưởng kinh tế
Thay đổi về lượng
Cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người, khái niệm phát triển đã dần được hoàn thiện. Hiện nay, về cơ bản, khái niệm phát triển vẫn giữ nguyên nội dung của thập niên trước nhưng trong đó nhấn mạnh hơn quyền của con người. Phát triển bao hàm các yếu tố tăng trưởng về kinh tế, tiến bộ về cơ cấu kinh tế và sự tiến bộ về xã hội, được tổng kết qua sơ đồ dưới đây:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Phát triển
Tiến bộ xã hội
Thay đổi về chất
Sơ đồ 1.1. Các yếu tố của phát triển
(Nguồn: Giáo trình kinh tế phát triển, trường Đại học Kinh tế quốc dân)
Như vậy, phát triển có phạm vi rộng hơn nhiều so với tăng trưởng. Bản thân tác giả cho rằng phát triển không chỉ là sự gia tăng về quy mô của nền kinh tế quốc dân mà nó còn là sự thay đổi về bản chất: thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mang lại cho con người một môi trường sống tốt hơn với các phúc lợi xã hội đi kèm.
1.1.2. Khái niệm phát triển bền vững
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học” [41, tr.18-19]. Tuy nhiên, chiến lược này chỉ nhấn mạnh phát triển bền vững ở góc độ bền vững về sinh thái với ba mục tiêu: duy trì hệ sinh thái cơ bản và những hệ hỗ trợ sự sống; bảo tồn tính đa dạng di truyền; bảo đảm sử dụng bền vững các loài và các hệ sinh thái.
Khái niệm “phát triển bền vững” được công bố chính thức và phổ biến rộng rãi vào năm 1987 qua Báo cáo Brundtland (còn gọi là báo cáo Tương lai chung của chúng ta) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED) thuộc Liên hiệp quốc. Báo cáo này ghi rõ "phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai" [42, tr.37]. Mục tiêu của phát triển bền vững mà WCED đưa ra là làm thế nào để đạt được phát triển ở hiện tại mà không ảnh hưởng đến cuộc sống và sự phát triển sau này.
Nội hàm về phát triển bền vững được tái khẳng định tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển ở Rio de Janero (Brazil) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển bền vững ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002. Phát triển bền vững được khái quát hóa theo ba mặt, gồm phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Ba mặt này kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà với nhau trong quá trình phát triển. Các đại biểu