(chiếm 2 %) và bản Hàng Lao Chải là 2 gia đình (chiếm 4 %). Về số gia đình có <50 % thành viên sử dụng Tiếng Việt, chỉ có bản Sín Chải có 7 gia đình (chiếm 14 %), các bản còn lại con số thống kê là 0 %.
Như vậy là ngoài bản Sín Chải, các bản còn lại đều có trên ½ các thành viên trong gia đình sử dụng thành thạo tiếng Việt.
+ Qua điều tra về số lượng người biết Tiếng Anh trong các gia đình, ta có các số liệu như sau: bản Cát Cát có 10/50 số gia đình (chiếm 20 %) có 1 người biết Tiếng Anh , tương tự bản Lý Lao Chải có 11/50 gia đình (chiếm 22
%) và bản Hàng Lao Chải có 12/50 gia đình (chiếm 24 %). Về số gia đình có 2 người biết Tiếng Anh, bản Cát Cát có 5/50 gia đình (chiếm 10 %), bản Lý Lao Chải có 8/50 gia đình (chiếm 16 %) và bản Hàng Lao Chải có 6/50 gia đình (chiếm 12 %). Riêng bản Sín Chải không có hộ gia đình nào có người biết Tiếng Anh. Qua điều tra tổng thế trong số 200 hộ được hỏi, có đến 52/200 hộ gia đình (chiếm 26 %) có người biết Tiếng Anh. Về cơ bản, với một tộc người lạc hậu như người Mông, đây cũng không phải một tỷ lệ nhỏ. Do tiếp xúc hàng ngày với khách du lịch, để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh du lịch, bà con biết nói Tiếng Anh khá thông thạo, đôi khi phát âm còn chuẩn hơn phát âm Tiếng Việt, nhưng chủ yếu là Tiếng Anh bồi, chỉ biết nói mà không biết viết.
Qua phỏng vấn về ngôn ngữ chính được sử dụng giữa các thành viên trong gia đình, hầu hết bà con vẫn giữ được ngôn ngữ của tộc người mình. Giữa các thế hệ vẫn thường xuyên sử dụng tiếng Mông để giao tiếp hàng ngày. Như vậy, ngoài thời gian tiếp xúc với du khách, bà con vẫn giữ được ngôn ngữ truyền thống của mình.
Phần lớn các doanh nghiệp được điều tra cho rằng du lịch ít tác động đến ngôn ngữ của người H’Mông (33/50 doanh nghiệp), số còn lại cho rằng du lịch không tác động đến ngôn ngữ.
2.3. Đánh giá các tác động của hoạt động du lịch đến đời sống của người H’Mông tại Sapa
2.3.1. Những tác động tích cực
Du lịch góp phần làm giảm tỷ lệ nghèo đói trong các bản của người H’Mông. Hoạt động du lịch đã đem lại một nguồn thu khá lớn cho các hộ gia đình H’Mông.
Du lịch tác động tích cực đến nếp sống của người H’Mông. Do tiếp xúc với những điều mới lạ, văn minh, nhận thức của bà con đã thay đổi phần nào. Vai trò của người phụ nữ được đề cao hơn trước đây. Các hủ tục xưa kia đã bị dần phai mờ. Trước đây, khi có bệnh, họ thường mời thầy mo thầy cúng để đuổi tà ma ra khỏi người. Nhưng nay, tại các thôn bản đã có các trạm xá dành cho bà con. Đời sống của họ đã ít lạc hậu hơn.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu tác động của hoạt động du lịch đến đời sống văn hóa - xã hội của cộng đồng người H’Mông ở Sa Pa, Lào Cai - 8
- Tác Động Đến Các Mối Quan Hệ Trong Gia Đình- Xã Hội
- Tác Động Đến Cơ Cấu Kinh Tế, Phân Công Lao Động
- Định Hướng Phát Triển Các Sản Phẩm Du Lịch, Dịch Vụ
- Kiến Nghị Đối Với Tỉnh Lào Cai Và Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Lào Cai
- Phiếu Điều Tra Phiếu Điều Tra
Xem toàn bộ 140 trang tài liệu này.
Du lịch mang lại nguồn kinh phí lớn để bảo tồn và phát triển cơ sở hạ tầng. Qua các khoản thu từ du lịch, địa phương có thêm kinh phí để đầu tư và phát triển về đường xá, tạo điều kiện phát triển về đời sống, đi lại cho bà con ở các làng bản.
Sự tìm hiểu và thán phục của du khách đối với các giá trị văn hóa bản địa (kiến trúc, ẩm thực, nghệ thuật…) khiến bà con hiểu rõ hơn các giá trị văn hóa của tộc người mình, từ đó có ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
2.3.2. Những tác động tiêu cực và nguyên nhân
- Người H’Mông nhận được rất ít lợi ích từ ngành du lịch, trong khi họ là một trong những động cơ bản lề cho việc khách du lịch tới Sa Pa. Một phần lớn tiền thu được từ việc bán tour nằm ở các công ty lữ hành ở Hà Nội, các nhà tổ chức tour thuê xe, hướng dẫn viên và tiền hoa hồng từ các khách sạn và nhà hàng ở Sa Pa-nơi mà các nhà kinh doanh gửi khách tới.
Trừ một lượng khách muốn ngủ bản theo hình thức homestay, đa số khách du lịch thường đề nghị tuyến trekking 1 ngày, như vậy dân địa
phương hầu như không được lợi gì, trừ tiền mua đồ uống trong bản và các hàng thủ công.
Khi phỏng vấn các công ty lữ hành tại Hà Nội hoặc các khách sạn tổ chức tuyến trekking trong khu vực, hầu như tất cả đều từ chối trích phần trăm lợi nhuận cho các bản dân tộc thiểu số khi họ tổ chức tham quan các bản, trừ khi tổ chức bữa ăn trong gia đình và khi nghỉ qua đêm.
Như vậy, người H’Mông chỉ được hưởng lợi rất thấp từ du lịch. Hầu hết các dịch vụ, các nguồn thu đều do ngành du lịch từ nơi khác đến quản lý. Còn người H’Mông cũng như đa số người địa phương ở Sa Pa-những chủ nhân của nguồn lực du lịch bản làng lại bị gạt ra ngoài lề của vòng quay du lịch.
- Du lịch đã tác động mạnh mẽ đến phân công lao động trong xã hội người H’Mông, xuất hiện một số ảnh hưởng tiêu cực như tệ nạn trẻ em lang thang bỏ học và phụ nữ bán hàng rong bám đuổi du khách.
Trẻ em ở các làng người H’Mông là điểm du lịch không đi học hoặc bỏ học nhiều hơn các làng không nằm trong tuyến du lịch. Nguyên nhân chủ yếu là các em học sinh cấp II, nhất là học sinh nữ là lực lượng chủ lực tham gia đội quân bán hàng cho khách du lịch. Nguồn thu từ việc phục vụ du khách khá hấp dẫn nên càng kích thích các em bỏ học, giảm tỷ lệ chuyên cần ở các lớp có học sinh lớn. Các em bỏ học nhiều để đi bán hàng rong, tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Tình trạng học sinh bỏ học, lang thang trên thị trấn Sa Pa xuất hiện từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ 20. Chính quyền các cấp ở Sa Pa đã có nhiều cố gắng giải quyết vấn đề này. Hội phụ nữ, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh của huyện Sa Pa được một số tổ chức phi chính phủ tài trợ kinh phí lập các dự án đào tạo việc làm, mở lớp học cho các em. Tuy nhiên, hiện tượng các em bỏ học bán hàng rong lang thang ở các điểm du lịch, ở các thị trấn vẫn tồn tại khá phổ biến.
Số phụ nữ bán hàng rong, đeo bám khách cũng diễn ra thường xuyên ở mọi địa điểm du khách tham quan. Hiện tượng chèo kéo, ép mua đồ lưu niệm thường xuyên xảy ra. Vào ngày cuối tuần, phụ nữ và trẻ em đổ về thị trấn Sa Pa để mời chào, chèo kéo du khách mua đồ lưu niệm. Buổi tối, các cô bé, cậu bé H’Mông từ các bản làng thường ngủ qua đêm tại thị trấn để đi đến các quán bán đồ nướng nài ép du khách mua đồ hoặc xin tiền.
Ngay tại các bản làng, hiện tượng này lại càng phổ biến. Tại cuối bản Cát Cát, các em nhỏ thường đi bám đuổi du khách để xin tiền. Tại bản Lao Chải, khi khách vừa xuống xe, các cô gái H’Mông lập tức vây kín để mời chào mua các sản phẩm thổ cẩm.
Hiện tượng chèo kéo này du khách rất phản đối, gây ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề phát triển du lịch và đời sống văn hoá các làng người H’Mông.
- Du lịch tác động tiêu cực đến đời sống văn hoá người H’Mông, nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể truyền thống bị biến dạng, nghèo nàn hoặc bị “đóng giả”, lợi dụng phục vụ mục đích “thương mại hoá”.
Điển hình là du khách ồ ạt đến xem các sinh hoạt giao duyên của trai gái H’Mông tối thứ 7 khiến cho các sinh hoạt giao duyên biến mất. Chợ tình tối thứ 7 hàng tuần là một nét văn hóa truyền thống của bà con dân tộc nơi đây. Chợ là nơi giao lưu tình cảm, tâm tình giữa các chàng trai cô gái nơi đây. Nhưng từ khi có du lịch, du khách khắp nơi đổ về. Để thỏa mãn trí tò mò, họ quay phim chụp ảnh, xâm phạm đến sự riêng tư nơi chợ tình. Dần dần chợ tình truyền thống biến mất, thay vào đó là một chợ tình mới, mang nặng tính thương mại hóa: các chàng trai cô gái H’Mông múa ô, múa khèn và đi xin tiền du khách đứng xem.
Người H’Mông có nghề thổ cẩm tinh xảo. Một tấm thổ cẩm được sản xuất phải qua nhiều công đoạn dệt, nhuộm, tạo hoa văn công phu. Dệt xong
tấm vải lanh, người H’Mông phải nhuộm từ 12 đến 15 lần mới tạo thành tấm vải bền màu. Nhưng muốn tạo sự láng bóng của vải, người H’Mông còn phải bôi sáp ong lên vải và lăn trên phiến đá. Người lăn đứng trên phiến đá dùng chân day đi day lại, cho đến khi vải mềm, ánh bóng màu tím than. Tạo được vải, phụ nữ H’Mông còn phải áp dụng cả ba thủ pháp nghệ thuật in sáp ong, thêu, ghép vải tạo hoa văn. Các mẫu hoa văn truyền thống giàu tính biểu tượng phản ánh cả tín hiệu văn hoá tộc người, lịch sử di cư. Nhưng hiện nay, các sản phẩm thổ cẩm bán cho khách du lịch đều được người H’Mông thêu hoa văn bằng máy khâu. Các mô típ hoa văn đơn giản đã thay thế hoa văn đặc sắc cổ truyền. Vì vậy giá trị nghệ thuật trong thổ cẩm H’Mông bị mai một, đứt đoạn với truyền thống. Các hoạ tiết hoa văn giàu tính biểu tượng đã nhường chỗ cho các hoa văn đơn giản loè loẹt phổ biến khắp từ Côn Minh- Vân Nam-Trung Quốc đến Hà Nội. Bản sắc nghệ thuật thổ cẩm H’Mông đang có nguy cơ suy tàn, kho tàng hoa văn thổ cẩm H’Mông ở Sa Pa không còn nét độc đáo, mất tín hiệu văn hoá tộc người.
Tương tự như vậy, các sản phẩm thủ công như chạm khắc bạc, làm đỗ gỗ, làm nhạc cụ... cũng chạy theo số lượng, làm sản phẩm kém chất lượng, thậm chí còn là đồ giả bán cho du khách. Điển hình nhất là các đồ trang sức bằng bạc được thay thế bằng nhôm. Thậm chí, ở nhiều làng, người H’Mông không làm đồ chạm khắc bạc mà đi mua đồ trang sức của người Kinh ở miền xuôi đem bán kiếm lời.
Hoạt động du lịch cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội như mại dâm, trộm cắp. Ở Sa Pa, đã có một số du khách nước ngoài phàn nàn về việc bị mất cắp khi đi tham quan các làng bản của người H’Mông.
Tiểu kết chương 2
Là tộc người chiếm tỷ lệ lớn nhất về dân số ở Sa Pa, cộng đồng người H’Mông là nhóm người chịu tác động lớn nhất từ hoạt động du lịch. Du lịch đã tác động mạnh mẽ đến các làng “giao” người H’Mông ở Sa Pa. Du khách không chỉ tác động đến đời sống kinh tế mà còn ảnh hưởng cả nếp sống văn hoá, đến vai trò của dòng họ, của bộ máy quản lý các làng H’Mông. Du lịch có ảnh hưởng tích cực, tăng nguồn thu cho người dân, góp phần xoá đói giảm nghèo, đề cao ý thức tự hào bản sắc văn hoá tộc người.... Nhưng du lịch cũng gây nên sự bất bình đẳng giữa thị trấn và nông thôn, sự hưởng lợi của dân làng H’Mông rất ít.... Đồng thời hàng loạt các vấn đề xã hội như trẻ em bỏ học lang thang, phụ nữ bán hàng rong chèo kéo khách ... cũng xảy ra khá phổ biến. Trước thực trạng đó cần xây dựng định hướng và giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Sa Pa, hướng tới mục tiêu giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH
BỀN VỮNG NHẰM GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC
GIÁ TRỊ VĂN HÓA-XÃ HỘI CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI H’MÔNG Ở SA PA, LÀO CAI
3.1. Định hướng phát triển du lịch của Sapa, Lào Cai
3.1.1. Định hướng chung
- Đối với Sa Pa là một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực trong nước và quốc tế, từ sự tập trung các giá trị tài nguyên mà ít nơi có được. Nên tập trung thực hiện quy hoạch khu du lịch Sa Pa trên cơ sở những nhận định, nhu cầu của khách du lịch trong nước, quốc tế mong đợi những gì những tồn tại gì hiện nay đang vướng mắc cần phải khắc phục và tình hình thực tế của Sa Pa để đưa ra những giải pháp qui hoạch cho phù hợp.
- Hằng năm, ngân sách (Trung ương và địa phương) cần ưu tiên dành một tỉ lệ thỏa đáng nguồn vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch. Đầu tư theo hướng đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm và theo đúng qui hoạch làm cơ sở kích thích phát triển du lịch trên địa bàn toàn huyện. Trước mắt tập trung đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng tại các trọng điểm phát triển du lịch, các khu du lịch, các điểm du lịch mũi nhọn của thành phố.
- Thực hiện xã hội hóa phát triển du lịch, khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh du lịch dưới các hình thức khác nhau như: xây dựng các khu, điểm, tuyến du lịch, cơ sở lưu trú đầu tư xây dựng các phương tiện vận chuyển khách thuỷ bộ hiện đại; xây dựng sản phẩm du lịch mới, bảo vệ, tôn tạo di tích, thắng cảnh; nâng lên qui mô và chất lượng các lễ hội, hoạt động văn hóa dân gian, các làng nghề phục vụ phát triển du lịch. Tiếp tục hoàn chỉnh chính sách khuyến khích đầu tư, tạo môi trường thông thoáng về đầu tư trong nước và nước ngoài, giữa tư nhân với nhà nước; mở rộng các hình thức thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước bằng các hình thức BOT, BTO, BT…
- Nâng cao vai trò của người dân địa phương trong phát triển du lịch cộng đồng để người dân ý thức được khi tham gia hoạt động du lịch thì sẽ được tôn trọng và chia sẻ quyền lợi. Phát triển ngành nghề du lịch trong dân, trong cộng đồng là chủ yếu nên cần phải tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức về du lịch để người dân tích cực tham gia.
- Huy động mọi nguồn vốn để giải quyết về nhu cầu đầu tư, phát triển du lịch, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia, hướng huy động chủ yếu là từ các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp lớn có tiềm lực kinh doanh hiệu quả, đảm bảo tốc độ tăng trưởng GDP du lịch, theo tính toán dự báo nguồn vốn bao gồm:
+ Vốn từ nguồn tích lũy GDP của các doanh nghiệp du lịch trong thành phố; vốn vay ngân hàng; thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong cả nước, vốn trong dân thông qua Luật khuyến khích đầu tư; vốn thông qua cổ phần hóa các doanh nghiệp; dùng quỹ đất để tạo nguồn vốn thông qua hình thức cho thuê đất, giao đất, đổi đất lấy cơ sở hạ tầng,…
+ Tạo mọi điều kiện thuận lợi (các cơ chế ưu đãi về thuế, về thủ tục hành chính) để thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) hoặc liên doanh với nước ngoài… với nguồn vốn này cần ưu tiên cho các nhà đầu tư có đủ năng lực để đầu tư xây dựng các dự án du lịch trọng điểm của thành phố đồng thời tranh thủ nguồn vốn ODA.
+ Vốn ngân sách Nhà nước (cả Trung ương và địa phương) ưu tiên sử dụng vào việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nội bộ tại các khu du lịch trọng điểm; công tác bảo vệ và tôn tạo tài nguyên, xúc tiến quảng bá du lịch tại các thị trường trọng điểm.
3.1.2. Định hướng cụ thể
3.1.2.1. Định hướng khai thác
Sa Pa là nơi tập trung các nguồn tài nguyên về tự nhiên và nhân văn, với khí hậu mát mẻ quanh năm, mặt khác có truyền thống nổi tiếng là đô thị