CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Sirwan Lutfulah Abdulla et al. (2022). The Impact of The Change in Accounting Policy on Banking Credit in Light of The Financial Crisis. Tác động của việc thay đổi chính sách kế toán đối với tín dụng ngân hàng do khủng hoảng tài chính. Chính sách kế toán được coi là một phần của kế hoạch chiến lược cho các tổ chức lao động nói chung và đặc biệt là các tổ chức tài chính. Do đó, điều quan trọng là phải được quan tâm để kiểm soát các hoạt động của tổ chức. Ý nghĩa của nghiên cứu này được đưa ra sau khi lựa chọn và thực hiện các chính sách kế toán hiện có tốt nhất bên trong các ngân hàng thương mại ở khu vực Kurdistan nhằm mục đích duy trì các khoản tín dụng của các ngân hàng và tình hình tài chính của họ trong thời kỳ khủng hoảng tài chính. Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu tác động của các chính sách kế toán có sẵn bên trong các ngân hàng thương mại của Khu vực Kurdistan đối với các quyết định tín dụng cho các công ty tìm kiếm tín dụng. Sau đó xác định tầm quan trọng của việc theo dõi tín dụng sau khi cấp chúng để đạt được sự liên tục của khách hàng khi trả các khoản trả góp với lãi suất số tiền dựa trên các điều kiện của trái phiếu. Để đạt được điều này, 62 bảng câu hỏi đã được tạo ra và phân phối cho tổng giám đốc, trợ lý giám đốc, trưởng bộ phận, trưởng đơn vị và chính xác hơn là trưởng bộ phận kế toán và kiểm toán. Sau đó, dữ liệu được phân tích bởi SPSS 22 thông qua các công cụ thống kê và phân tích hồi quy. Nghiên cứu đã đạt được một số các kết quả như: các chính sách kế toán khả thi được thực hiện trong các ngân hàng như một cơ sở của các xử lý kế toán hoặc để điều chỉnh thông tin kế toán minh họa bên trong các báo cáo tài chính, một trong các chỉ số tín dụng của ngân hàng gọi là cấp tín dụng ngân hàng được xem là một trong những quyết định khó khăn nhất mà các ngân hàng chịu trách nhiệm về nó đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng tài chính. Cuối cùng, nghiên cứu kết luận với một số khuyến nghị, trước mắt là việc công khai chính sách kế toán vì nó ảnh hưởng tích cực đến quyết định tín dụng của ngân hàng. Sau đó là sự cần thiết của việc tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ kế toán quản lý tài chính để sử dụng đúng chính sách kế toán.
Sandra Alves (2019). “Accounting for investment property determinants of accounting policy choice by portuguese listed firms”. Nghiên cứu này xem xét các yếu tố quyết định lựa chọn chính sách kế toán cho các công ty đầu tư bất động sản ở Bồ Đào Nha trong khuôn khổ của lý thuyết kế toán tích cực. Các kết quả hỗ trợ giả thuyết nợ theo lý thuyết tích cực. Trong đó, các công ty có đòn bẩy tài chính cao làm tăng đáng kể xác suất hơn các công ty chọn mô hình giá trị hợp lý. Kết quả cũng cho thấy rằng kích thước và sự bất đối xứng thông tin tăng đáng kể xác xuất các công ty chọn mô hình hợp lý. Trong khi đó, tập trung quyền sở hữu tăng đáng kể xác suất các công ty chọn mô hình chi phí. Nghiên cứu này cho thấy quyết định sử dụng phương pháp hợp lý dường như được hướng dẫn chủ yếu bỡi nhu cầu báo hiệu sức khỏe tài chính của công ty. Đặc biệt là khả năng vay bổ sung của nó để giảm sự bất cân xứng thông tin giữa thông tin và các nhà đầu tư bên ngoài. Tuy nhiên, kế hoạch vốn chủ sở hữu, kế hoạch thưởng, số lượng giảm đốc điều hành không nằm trên bảng dường như không thành vấn đề.
Desrir Miftah (2018). “Bonus Plan and Income Smoothing on the Selection of Accounting Policy and Corporate Governance Determination Manufacturing Companies Listed on the Indonesian Stock”. Kế hoạch tiền thưởng và làm tăng thu nhập khi lựa chọn chính sách kế toán và quản trị các công ty sản xuất được niêm yết trên chứng khoán Indonesia. Nghiên cứu này nhằm mục đích quan sát vai trò của quản trị công ty đối với kế hoạch tiền thưởng và cải thiện thu nhập cũng như quyết định các chính sách kế toán. Nhằm mục đích kiểm tra hiệu quả của kế hoạch thưởng và thu nhập ổn định về việc lựa chọn các chính sách kế toán. Phương pháp hồi quy logistic được sử dụng để xử lý dữ liệu từ các công ty sản xuất được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Indonesia trong giai đoạn 2013-2015 được lựa chọn bởi sơ đồ lấy mẫu có chủ đích. Kết quả cho thấy rằng kế hoạch thưởng không ảnh hưởng đến việc lựa chọn kế toán các chính sách trong khi việc điều chỉnh thu nhập ảnh hưởng đến cách lựa chọn chính sách kế toán. Hơn nữa, công ty quản trị như một biến số điều tiết đã tác động đến kế hoạch tiền thưởng cho việc lựa chọn chính sách kế toán nhưng không ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa việc điều chỉnh thu nhập với việc lựa chọn các chính sách kế toán. Nghiên cứu cố gắng chứng minh ảnh hưởng của hoạt
động làm dịu thu nhập đối với việc lựa chọn chính sách kế toán bởi vì cho đến khi bây giờ không có nghiên cứu đã làm như vậy.
Okpala, Kenneth Enoch (2016). “Factors influencing accounting policy choices under IFRS in the Airline-GSA companies”. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách kế toán theo IFRS trong các công ty Hàng không-GSA. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn CSKT trong các Công ty Đại lý bán hàng hàng không. Nghiên cứu sử dụng kích thước mẫu là 101 nhân viên cao cấp của 10 Công ty GSA. Kết quả đã kết luận rằng quy mô của DN không ảnh hưởng đến lựa chọn CSKT. Mục tiêu thuế của công ty có mối quan hệ đáng kể với lựa chọn CSKT. Nghiên cứu này khằng định rằng các công ty không nên quá tập trung vào việc lựa chọn CSKT nhằm đạt mục tiêu về thuế mà nên tập trung vào lựa chọn CSKT nhằm nâng cao chất lượng thông tin của BCTC nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của các đối tượng sử dụng thông tin của DN.
Marina Gurau (2014). “Three types of accounting policies reflected in Finacial Statements. Case study for Romania”. Ba loại chính sách kế toán được phản ánh trong báo cáo tài chính nghiên cứu ở Romania. Nghiên cứu cho rằng lựa chọn CSKT trong từng trường hợp cụ thể với những mục tiêu khác nhau sẽ tác động đến BCTC, nhằm phản ảnh tình hình sử dụng tài chính và hiệu quả hoạt động của DN, từ đó cung cấp thông tin cho người sử dụng ra quyết định kinh tế. Theo tác giả, việc lựa chọn CSKT là kết quả giữa mong muốn và kỳ vọng từ các nhà quản trị hay chủ đầu tư và sự tác động các chuẩn mực được ban hành cần tuân thủ. Vì vậy thông tin phản ảnh trên BCTC không được xem là hoàn toàn trung thực hợp lý. Đối với việc lựa chọn CSKT, tác giả đưa ra ba mục tiêu gồm: điều chỉnh lợi nhuận kế toán trong kỳ, bảo tồn vốn dài hạn và tuân thủ các quy tắc kế toán cũng như quy định luật thuế. Nhìn chung nghiên cứu Marina Gurau góp phần làm rõ các phương pháp, hướng dẫn cụ thể lựa chọn CSKT nhằm đáp ứng các mục tiêu của DN.
Szilveszter Fekete et al. (2010). “Explaining Accounting Policy Choices of SME’s: An Empirical Research on the Evaluation Methods”. Giải thích các lựa chọn chính sách kế toán của doanh nghiệp SME’s: Nghiên cứu thực nghiệm về các phương pháp đánh giá. Nghiên cứu việc lựa chọn CSKT của các DNNVV tại Rumani. Szilveszter Fekete và cộng sự đã dựa trên cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước
thực hiện phân tích nhân tố khám phá. Kết quả có 6 nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn CSKT ở Rumani bao gồm: thông tin, thuế, sự tin cậy của các đối tượng bên ngoài DN, đáp ứng yêu cầu các đối tượng bên trong, chi phí, tính trung thực và hợp lý BCTC thu được từ phân tích nhân tố khám phá. Trong đó, nhân tố thông tin (chủ yếu là nhu cầu thông tin của nhà quản lý, cổ đông...) có ảnh hưởng mạnh nhất, tiếp theo là nhân tố thuế, các nhân tố còn lại ảnh hưởng ít. Có thể thấy, nghiên cứu này đã tập hợp khá đầy đủ các nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn CSKT của DNNVV đã được khám phá trước đó.
Christos Tzovas (2006). “Factors influencing a firm’s accounting policy decisions when tax accounting and financial accounting coincide”. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chính sách kế toán của công ty có phù hợp giữa kế toán thuế và kế toán tài chính. Nghiên cứu nhằm mục đích điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến các quyết định lựa chọn CSKT của các công ty hoạt động ở Hy Lạp. Thông qua một cuộc khảo sát các nhà quản lý tài chính của 200 công ty ở Hy Lạp để thu thập ý kiến của họ về tác động của báo cáo số liệu từ các bên liên quan và mức độ các công ty theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Qua cuộc khảo sát, sự lựa chọn CSKT chịu ảnh hưởng bởi nhận thức các bên liên quan, mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu tối thiểu hóa nghĩa vụ thuế của DN tuy nhiên những mục tiêu này có thể không đồng nhất. Tác giả đã ghi lại bằng chứng về mức độ mà DN muốn báo cáo lợi nhuận giảm (để giảm nghĩa vụ thuế) và mức độ DN muốn báo cáo lợi nhuận tăng (để tác động tích cực đến quyết định cho vay của ngân hàng, tránh vi phạm cam kết vay vốn hay tăng giá trị cổ phiếu của DN). Nghiên cứu này giúp các nhà nghiên cứu xác định các yếu tố hình thành CSKT của các DN hoạt động ở các nước có môi trường kinh tế tương tự như của Hy Lạp. Ngoài ra, những phát hiện của nghiên cứu này có thể tạo điều kiện cho các chuyên gia thực hiện phân tích tài chính quốc tế, góp phần giải thích các quyết định lựa chọn CSKT của các công ty Hy Lạp. Nghiên cứu này không những áp dụng cho các công ty hoạt động ở Hy Lạp, mà còn của các công ty ở các nước có môi trường kế toán tương tự như của Hy Lạp (ví dụ như các nước châu Âu).
Franck Missonier-Piera (2004). “Economic Determinants of Multiple Accounting Method Choices in a Swiss Context”. Các yếu tố quyết định kinh tế của nhiều lựa chọn phương pháp kế toán trong bối cảnh Thụy Sĩ. Nghiên cứu thực hiện
để điều tra các yếu tố kinh tế có thể ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp kế toán tại các công ty được niêm yết ở Thụy Sĩ. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng việc lựa chọn CSKT có liên quan đến đòn bẩy tài chính, bản chất của tài sản, chi phí chính trị và mức độ pha loãng cổ phần. Ngoài ra, mức vay nợ, quy mô công ty và chính sách thưởng cho nhà quản lý cũng có ảnh hưởng đáng kể. Mẫu được lựa chọn để nghiên cứu các chỉ số trên BCTC là 106 công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Thụy Sĩ. Các công ty Thụy Sĩ được phép lựa chọn các phương pháp kế toán rộng hơn so với Mỹ. Ngoài ra, nghiên cứu cũng xem xét đến mức độ pha loãng cổ phần, các công ty có độ pha loãng quyền sở hữu càng cao, cổ phần bị chia nhỏ cho càng nhiều cổ đông nắm giữ sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho nhà quản lý sử dụng các CSKT để làm tăng lợi nhuận. Nhìn chung, kết quả này cho thấy rằng trong bối cảnh Thụy Sĩ, các nhà quản lý có thể lựa chọn phương pháp kế toán để giảm cả nợ và chi phí chính trị cũng như tăng mức bồi thường của họ ở một mức độ nào đó. Bên cạnh đó, mức vay nợ, quy mô công ty và chính sách thưởng cho nhà quản lý có ảnh hưởng đáng kể.
Kenneth and Michael (1991). “Economic determinants of accounting policy choise”. Các yếu tố kinh tế quyết định đến việc lựa chọn chính sách kế toán. Nghiên cứu việc thực thi các chuẩn mực kế toán của các công ty ở Anh được thực hiện dựa vào nghĩa vụ phải tuân thủ với cơ quan kế toán chuyên nghiệp và một phần các thỏa thuận niêm yết trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, dường như các tiêu chuẩn kế toán của vương quốc Anh thiếu sức mạnh của luật pháp, sự không tuân thủ là phổ biến hơn ở Bắc Mỹ. Tác giả sử dụng hồi quy logistic để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tuân thủ CSKT tại Anh (SSAP 16), trong đó có 5 nhân tố sau: mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính, tầm nhìn chính trị (quy mô DN, khả năng sinh lời, mức độ sử dụng vốn), thuế, chi phí chuẩn bị, sự tăng trưởng. Kết quả của nghiên cứu hỗ trợ mạnh mẽ các nghiên cứu trước đây rằng quy mô lớn khiến các công ty áp dụng các phương pháp kế toán để giảm thu nhập, trong khi đòn bẩy cao có tác dụng ngược lại.
Charles P. Cullinan (1999). “International Trade and Accounting Policy Choice: Theory and Canadian Evidence”. Sự lựa chọn chính sách kế toán thương mại và kế toán quốc tế: Lý thuyết và bằng chứng ở Canada. Nghiên cứu của Charles
khai thác một số nhân tố mới ảnh hưởng đến sự lựa chọn CSKT là các hoạt động thương mại quôc tế. Hoạt động thương mại quốc tế có thể tạo ra động lực lựa chọn CSKT theo hướng lợi nhuận ngày càng tăng thông qua kiểm tra thực tế sự lựa chọn phương pháp trích khấu hao của các DN ở Canada. Charles đặt ra giả thiết là DN xuất khẩu có nhiều khả năng lựa chọn CSKT lợi nhuận tăng hơn DN không xuất khẩu và DN nhập khẩu nhiều khả năng lựa chọn CSKT lợi nhuận tăng hơn DN không nhập khẩu. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng DN nhập khẩu thường lựa chọn CSKT theo hướng lợi nhuận ngày càng tăng so với DN không nhập khẩu, xuất khẩu thì lại không có ảnh hưởng đến sự lựa chọn CSKT. Điểm mới của Charles là tác giả đã nghiên cứu thêm nhóm các bên liên quan khác mà các nghiên cứu trước không đề cập đến đó là khách hàng và nhà cung cấp nước ngoài. Các bên liên quan có thể đánh giá khả năng của đối tác thương mại dựa trên cảm nhận sức mạnh tài chính vì thế các DN có hoạt động thương mại quốc tế có thể lựa chọn CSKT tối đa hóa lợi nhuận. Bên cạnh đó nghiên cứu vẫn có một số hạn chế nhất định liên quan đến dữ liệu có sẵn và khả năng khái quát, kết quả nghiên cứu chỉ giới hạn trong phạm vi các DN lớn và thương mại công khai.
Steven Young (1998). “The Determinants of Managerial Accounting Policy Choice: Further Evidence for the UK”. Các yếu tố quyết định sự lựa chọn chính sách kế toán của nhà quản lý: Bằng chứng từ Vương quốc Anh. Nghiên cứu các nhân tố quyết định sự lựa chọn CSKT của các công ty thuộc ngành công nghiệp và thương mại tại nước Anh. Nghiên cứu tiến hành phân tích chỉ số tài chính từ mẫu báo cáo của 533 công ty ngành công nghiệp và thương mại tại Anh trong khoảng thời gian khác nhau từ năm 1988 đến 1991. Các giả thuyết nghiên cứu của tác giả kế thừa từ nghiên cứu của Watts và Zimmerman trên cơ sở lý thuyết chi phí ký kết hợp đồng, lý thuyết ổn định lợi nhuận và lý thuyết tín hiệu thông tin. Dựa vào nghiên cứu của Watts và Zimmerman (1990) các giả thuyết nghiên cứu của tác giả trên cơ sở lý thuyết chi phí ký kết hợp đồng, lý thuyết ổn định lợi nhuận và lý thuyết tín hiệu thông tin. Kết quả nghiên cứu giải thích được sự lựa chọn CSKT chịu ảnh hưởng của mức vay nợ, mục tiêu ổn định lợi nhuận và dấu hiệu dòng tiền mong muốn trong tương lai của DN. Tuy nhiên nhiều nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định
quản lý đã không được xem xét trong nghiên cứu là sự khác biệt trong tác động quản trị công ty.
P. Healy (1985). “The Effect of Bonus Schemes on Accounting Decisions”. Ảnh hưởng của các kế hoạch tiền thưởng đối với các quyết định kế toán. Nghiên cứu về ảnh hưởng của kế hoạch tiền thưởng đối với người quản lý đến số liệu kế toán trên BCTC nhằm thu thập bằng chứng rằng liệu các kế hoạch này có ảnh hưởng đến việc lựa chọn CSKT của người quản lý. Nghiên cứu đã khảo sát cách thức tính khoản thưởng cho nhà quản lý và tính hiệu số giữa lợi nhuận trong kỳ và lợi nhuận tối thiểu. Kết quả phân tích thống kê của nghiên cứu cho kết quả như mong đợi tức là kế hoạch tiền thưởng đối với nhà quản lý có ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn CSKT của DN.
Robert L.Hagerman and Mark E.Zmijewski (1979). “Some economic determinants of accounting policy choice”. Một số yếu tố kinh tế quyết định lựa chọn chính sách kế toán. Nghiên cứu cho thấy có 5 nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn CSKT bao gồm: Quy mô DN, mức độ rủi ro thị trường, mức độ sử dụng vốn, kế hoạch thưởng, tỷ lệ sở hữu của nhà quản lý. Các nhân tố này có quan hệ chặt chẽ đến sự lựa chọn CSKT dẫn đến tăng hoặc giảm lợi nhuận của nhà quản lý. Dựa vào lý thuyết được phát triển bởi Watts và Zimmerman (1978), tác giả lập luận rằng quy mô DN, tỷ lệ sở hữu, rủi ro và sử dụng vốn liên quan tích cực đến khả năng một công ty sẽ chọn các nguyên tắc kế toán giảm thiểu báo cáo thu nhập ròng. Tương tự như vậy, sự tồn tại của kế hoạch thưởng quản lý để chọn nguyên tắc kế toán sẽ tăng thu nhập ròng. Kết quả của nghiên cứu rất phù hợp với các giả thuyết mà tác giải đưa ra.
Bảng 1. 1: Bảng tổng hợp các nghiên cứu nước ngoài
Tác giả | Đề tài nghiên cứu | Phương pháp nghiên cứu | Kết quả nghiên cứu | |
1 | Sirwan Lutfulah Abdulla et al. (2022) | The Impact of The Change in Accounting Policy on Banking Credit in Light of The Financial Crisis. (Tác động của việc thay đổi chính sách kế toán đối với tín dụng ngân hàng do khủng hoảng tài chính) | Phương pháp nghiên cứu định lượng | Kết quả nghiên cứu đã đạt được một số các kết quả, chẳng hạn như: các chính sách kế toán khả thi được thực hiện trong các ngân hàng như một cơ sở của các xử lý kế toán hoặc để điều chỉnh thông tin kế toán minh họa bên trong các báo cáo tài chính, một trong các chỉ số tín dụng của ngân hàng gọi là cấp tín dụng ngân hàng được xem là một trong những quyết định khó khăn nhất mà các ngân hàng chịu trách nhiệm về nó đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng tài chính. |
2 | Sandra Alves (2019) | Accounting for Investment Property: Determinants of Accounting Policy Choice by Portuguese Listed Firms. (Nghiên cứu này xem xét các yếu tố quyết định các lựa chọn kế toán cho bất động sản đầu tư theo danh sách của | Phương pháp nghiên cứu định lượng. | Kết quả nghiên cứu này cho thấy quyết định sử dụng phương pháp hợp lý dường như được hướng dẫn chủ yếu bỡi nhu cầu báo hiệu sức khỏe tài chính của công ty. Đặc biệt là khả năng vay bổ sung của nó để giảm sự bất cân xứng thông tin giữa thông tin và các nhà đầu tư bên ngoài. |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu sự lựa chọn chính sách kế toán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình Dương - 1
- Nghiên cứu sự lựa chọn chính sách kế toán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình Dương - 2
- Nghiên cứu sự lựa chọn chính sách kế toán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình Dương - 4
- Nghiên cứu sự lựa chọn chính sách kế toán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình Dương - 5
- Nghiên cứu sự lựa chọn chính sách kế toán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình Dương - 6