5.1.2.3. Hoàn thiện hệ thống kế toán Việt Nam 56
5.1.3. Về phía nhà đầu tư 57
5.2. Kết luận 57
DANH SÁCH CÁC BIỂU, BẢNG, HÌNH
Hình 2.1 Mô hình tam giác gian lận 16
Bảng 2.1 Kết quả nghiên cứu của ACFE 19
Bảng 2.2 Kết quả thống kê số liệu theo loại gian lận ACFE 19
Bảng 2.3 Mô tả các biến trong mô hình 24
Bảng 2.4 Bảng kiểm tra mức độ chính xác của mô hình 31
Bảng 3.1 Một số DN BĐS triển vọng theo số liệu về quỹ đất (11/2014) 41
Bảng 4.1 Bảng thống kê mô tả các biến độc lập đưa vào mô hình 44
Bảng 4.2 Bảng ma trận hệ số tương quan của các biến trong mô hình 46
Bảng 4.3 Bảng thống kê kỳ vọng về dấu của các biến trong mô hình 46
Bảng 4.4 Bảng kết quả ước lượng mô hình (1) 47
Bảng 4.5 Bảng kết quả ước lượng mô hình (2) 48
Bảng 4.6 Ngưỡng M-socre tương ứng với mức xác suất dự báo 49
Bảng 4.7 Kết quả chạy mô hình qua dữ liệu ngành Bất động sản 2016 52
Bảng 4.8 Bảng tổng hợp các dự báo theo ngưỡng xác suất 52
Bảng 4.9 Bảng kết quả mức độ chính xác của mô hình 53
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCTC
BĐS | Bất động sản |
HNX | Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội |
HOSE | Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh |
KSNB | Kiểm soát nội bộ |
KTV | Kiểm toán viên |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu mô hình xác định sai lệch trên Báo cáo tài chính của các công ty thuộc ngành Bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 1
- Sự Ổn Định Tài Chính Hay Khả Năng Sinh Lời Bị Ảnh Hưởng Bởi Tình Hình Kinh Tế, Ngành Nghề Kinh Doanh Hay Điều Kiện Hoạt Động Của Đơn Vị
- Kết Quả Thống Kê Số Liệu Theo Loại Gian Lận Acfe
- Dữ Liệu Và Phương Pháp Thu Thập Số Liệu Ngành Bất Động Sản
Xem toàn bộ 78 trang tài liệu này.
Chương 1 MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Gian lận trong công bố thông tin trên Báo cáo tài chính (BCTC) là một trong những chủ đề thời sự hiện nay, đặc biệt sau sự kiện hàng loạt các công ty hàng đầu trên thế giới bị phá sản vào đầu thế kỷ 21. Các công ty bị phá sản đã cho là có gian lận về BCTC có thể kể ra rất nhiều như: Lucent, Xerox, Rite Aid, Waste Management, Micro Strategy, Raytheon, Sunbeam, Enron, Worldcom, Global Crossing, Adelphia, Qwest,… Điển hình là Enron – công ty khí tự nhiên lớn nhất nước Bắc Mỹ tập niên 90, giá cổ phiếu Enron tăng vùn vụt qua các năm (tăng 311% từ 1990 đến 1998), là ngôi sao sáng chói trên thị trường chứng khoán Mỹ. Tuy nhiên sự tăng trưởng không ngừng đó lại đi kèm với gian lận. Ban điều hành đã khai thác những khe hở kế toán, sử dụng các thể chế đặc thù và các báo cáo tài chính không trung thực để đẩy giá cổ phiếu, làm hài lòng các nhà đầu tư Phố Wall. Thậm chí họ còn gây áp lực với công ty kiểm toán bỏ qua các vấn đề rủi ro ở Enron. Khi mọi việc vỡ lở đã làm công ty phá sản, giá cổ phiếu đang từ mức đỉnh 90 USD năm 2000 rơi xuống xuống còn chưa tới 1 USD vào cuối tháng 11/2011, các nhà đầu tư mất trắng hàng tỷ USD và khoảng 20.000 nhân viên mất việc làm. Vụ bê bối này cũng đánh động các nhà chức trách ban hành luật mới nhằm tăng cường tính chính xác BCTC Nhà quản lý cao cấp gồm cả Giám đốc điều hành (CEO) và Giám đốc tài chính (CFO) của những công ty này đều bị cho rằng đã tham gia vào việc chế biến số liệu đưa đến gian lận BCTC.
Rò ràng, việc phát hiện sai phạm trên BCTC nhằm đảm bảo tính trung thực của nó đã trở thành thách thức lớn đối với các nhà quản lý doanh nghiệp cũng như các bên có liên quan. Do vậy, gian lận trong BCTC luôn là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Chẳng hạn, năm 1996 Beasley đã tiến hành phân tích kinh nghiệm mối liên hệ giữa thành phần Ban Giám đốc và gian lận BCTC của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán ở Mỹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy số thành viên độc lập từ bên ngoài công ty trong Ban Giám đốc càng nhiều thì hành động gian lận BCTC càng giảm. Nghiên cứu năm 2002 của Rezaee tập trung nhận diện nguyên nhân, hậu quả và phương pháp ngăn chặn hành vi gian lận BCTC của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán ở Mỹ. Nghiên cứu đã trình bày các giải pháp nhằm phát hiện và phòng ngừa nhằm giảm thiểu hành động gian lận BCTC, bao gồm các giải pháp đến phân tích chức năng, vai trò của các bên có liên quan đến quy trình lập và công bố BCTC của công ty như Ban Giám đốc, Ban Kiểm soát, Kiểm soát nội bộ, đội ngũ quản lý cấp cao, Kiểm toán độc lập, các cơ quan quản lý nhà nước. Rò ràng, nhận diện gian lận
trong BCTC đã được nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này tại Việt Nam.
Việc phát sinh gian lận trên BCTC ở những công ty có tầm vóc lớn đã làm phát sinh sự quan tâm ngày càng nhiều về tính trung thực, hợp lý của BCTC. Nó cũng là thách thức lớn đối với người quản lý công ty cũng như đối với Kiểm toán viên trong việc phát hiện các sai phạm trên BCTC. Do vậy, gian lận luôn là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu và nhiều nghề nghiệp khác nhau quan tâm.
Ngoài những vi phạm của các công ty đại chúng có thể nhìn ra được, các chuyên gia trong lĩnh vực kiểm toán cũng cho hay, những năm gần đây nền kinh tế rất khó khăn. Không ít doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán rơi vào hoàn cảnh doanh thu bán hàng giảm, hàng hóa chậm luân chuyển, trong khi lãi suất ngân hàng lại lên cao, chi phí đầu vào cao,… Khiến công ty không hoàn thành kế hoạch, thậm chí còn lỗ nặng. Điều này dẫn đến việc một vài đơn vị có những gian lận để làm đẹp BCTC nhằm phục vụ các mục tiêu khác nhau. Vì vậy, mặc dù các công ty kiểm toán đã thực hiện đủ các thủ tục và chuẩn mực, nhưng vẫn không thể phát hiện được hết các gian lận từ phía các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các quy định về lập BCTC hiện tại về các bên liên quan vẫn còn theo hướng liệt kê mà chưa chú trọng vào việc xây dựng nguyên tắc xác định đâu là các bên liên quan cũng như yêu cầu cụ thể về thuyết minh các giao dịch với các bên liên quan, tạo điều kiện cho các công ty né tránh hoặc không trình bày đầy đủ về các thông tin này, ảnh hưởng đến chất lượng của BCTC.
Trong những năm gần đây, ngành Bất động sản tại Việt Nam đang có chiều hướng hồi phục và dần đi vào quỹ đạo. Các dự án nhà ở, đất đai, kinh doanh,… đã và đang phát triển một cách chóng mặt để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Thị trường bất động sản là thị trường quan trọng trong nền kinh tế, có mối liên hệ mật thiết với các thị trường khác, như: thị trường vật liệu xây dựng, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ và đặc biệt là với thị trường tài chính, tiền tệ. Theo phân tích đánh giá của các chuyên gia kinh tế, ở các nước phát triển nếu đầu tư vào lĩnh vực BĐS tăng lên 1 USD sẽ thúc đẩy các lĩnh vực khác của nền kinh tế phát triển 1,5 - 2 USD. Vì thế, trong tương lai, ngành Bất động sản là ngành có tiềm năng, cần được quan tâm đầu tư phát triển. Để thu hút được nguồn đầu tư cho ngành này, tính minh bạch và trung thực của thông tin đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên hiện nay, cơ chế phát hiện và xử lý sai sót trên BCTC của Việt Nam hiện chưa được hoàn thiện. Vì vậy, vấn đề gian lận trên BCTC của ngành Bất động sản cần được quan tâm hơn nữa.
Từ những phân tích về hậu quả của sai phạm báo cáo tài chính như trên, kết hợp với những thông tin về thị trường Bất động sản Việt Nam, cho thấy việc phát hiện sai phạm báo cáo tài chính ngành này là rất cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề trên, đề tài “Nghiên cứu mô hình xác định sai lệch trên Báo cáo tài chính của các công ty thuộc ngành Bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” được thực hiện để xác định các nhân tố có thể giúp Kiểm toán viên, Ban Quản trị cũng như cơ quan quản lý Nhà nước nhận diện khả năng gian lận trong BCTC của các công ty niêm yết, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế và phòng ngừa tình trạng này.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của đề tài này là nghiên cứu mô hình xác định sai lệch trên Báo cáo tài chính của các công ty thuộc ngành Bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, qua đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính trung thực trong báo cáo tài chính của các công ty trên.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Mô tả thực trạng về sai lệch báo cáo tài chính các công ty ngành Bất động sản niêm yết trên hai sàn chứng khoán (HNX, HOSE) trong ba năm 2013 - 2015.
Xây dựng mô hình dự đoán sai lệch BCTC phù hợp với ngành Bất động sản Việt Nam năm 2016 dựa trên những mô hình sẵn có và được chứng minh có hiệu quả cao trong việc đánh giá sai lệch BCTC.
Đánh giá khả năng dự báo mô hình được xây dựng, đồng thời từ mô hình đưa ra những đề xuất hữu ích cho những đối tượng quan tâm về nhận diện sai lệch báo cáo tài chính trọng yếu.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
1.3.1. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu được thu thập từ các mẫu BCTC trước và sau kiểm toán của 54 công ty ngành Bất động sản niêm yết trên 02 sàn chứng khoán (HNX, HOSE) trong ba năm 2013 - 2015.
1.3.2. Phương pháp xử lý số liệu (sẽ đề cập chi tiết ở chương 2)
Sử dụng phần mềm Eviews 6 để tiến hành thống kê mô tả dữ liệu (giá trị trung bình, giá trị lớn nhất, nhỏ nhất,…) các biến thu thập được dựa trên số liệu thu thập từ các mẫu BCTC trước và sau kiểm toán của 54 công ty ngành Bất động sản niêm yết trên 02 sàn chứng khoán (HNX, HOSE) trong ba năm 2013 - 2015.
Phương pháp định lượng sử dụng mô hình logistic ước lượng bằng phần mềm Eviews 6. Mô hình logistic với biến đầu ra là biến giả 0; 1 nhằm nhận dạng báo cáo tài chính có dấu hiệu sai lệch hay không. Mô hình logistic này sử dụng
dữ liệu các mẫu báo cáo tài chính trước và sau kiểm toán của 54 công ty ngành Bất động sản niêm yết trên 02 sàn chứng khoán (HNX, HOSE) trong ba năm 2013 - 2015. Sau khi xây dựng được mô hình ước lượng, kiểm định tính chính xác của mô hình trên phần mềm Excel với số liệu từ báo cáo tài chính trước và sau kiểm toán của các công ty thuộc ngành Bất động sản năm 2016.
Khóa luận sử dụng mô hình Beneish để dự đoán khả năng sai sót trọng yếu do gian lận báo cáo tài chính của các công ty thuộc ngành Bất động sản niêm yết trên 02 sàn chứng khoán (HNX, HOSE).
Nghiên cứu của Beneish (1999) đã xây dựng mô hình M-score (M viết tắt của “manipulation” - thao túng) để xác định để xác định các công ty có thực hiện thao túng thu nhập hay không.
1.4. Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của bài viết là những sai lệch trọng yếu trong báo cáo tài chính của 54 công ty ngành Bất động sản niêm yết trên 02 sàn chứng khoán (HNX, HOSE) trong ba năm 2013 – 2015.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
1.4.2.1. Phạm vi về thời gian
- Thời gian thu thập số liệu: số liệu để thực hiện đề tài được thu thập trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2016.
- Thời gian thực hiện đề tài: đề tài được thực hiện trong khoảng thời gian từ 13/02/2017 đến 05/5/2017.
1.4.2.2. Phạm vi về không gian
Mẫu số liệu nghiên cứu được chọn từ các Báo cáo tài chính (BCTC) trước và sau kiểm toán của 54 công ty ngành Bất động sản niêm yết trên 02 sàn chứng khoán (HNX, HOSE).
1.5. Cấu trúc khóa luận
Chương 1: Mở đầu.
Chương 2: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Giới thiệu về thị trường chứng khoán tổng quan về thị trường Bất động sản tại Việt Nam.
Chương 4: Kết quả và thảo luận về kết quả nghiên cứu.
Chương 5: Khuyến nghị - Kết luận.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận về sai phạm trong BCTC
2.1.1. Định nghĩa về BCTC và sai phạm, gian lận trong BCTC
Báo cáo tài chính của đơn vị kế toán là sự trình bày một cách hệ thống về các thông tin tài chính quá khứ, bao gồm các thuyết minh có liên quan, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính của đơn vị kế toán bao gồm: báo cáo tình hình tài chính; báo cáo kết quả hoạt động; báo cáo lưu chuyển tiền tệ; thuyết minh báo cáo tài chính; báo cáo khác theo quy định của pháp luật (Điều 29, Luật Kế toán số: 88/2015/QH13).
Theo từ điển tiếng Việt: gian lận là hành vi thiếu trung thực, dối trá, mánh khoé nhằm lừa gạt người khác.
Theo nghĩa rộng: gian lận là việc xuyên tạc sự thật, thực hiện các hành vi không hợp pháp nhằm lừa gạt, dối trá để thu được một lợi ích nào đó. Ba biểu hiện thường thấy của gian lận là: chiếm đoạt, lừa đảo và ăn cắp.
Theo Lý thuyết Kiểm toán (GS.TS. Nguyễn Quang Quynh, TS. Nguyễn Thị Phương Hoa- NXB Tài chính): sai phạm là yếu tố mấu chốt trong việc xác minh tính trung thực của thông tin kế toán và hoạt động tài chính. Sai phạm bao gồm gian lận và sai sót. “Gian lận là hành vi cố ý lừa dối, giấu diếm, xuyên tạc sự thật với mục đích tư lợi”. “Sai sót là lỗi không cố ý, thường được hiểu là sự nhầm lẫn bỏ sót hoặc yếu kém về năng lực gây ra sai phạm”.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 (BTC, 2012, mục I: Quy định chung): “Sai sót trong báo cáo tài chính có thể phát sinh từ gian lận hoặc nhầm lẫn. Để phân biệt giữa gian lận và sai sót, cần xem xét hành vi dẫn đến sai sót trong báo cáo tài chính là cố ý hay không cố ý”. Trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 cũng định nghĩa: “Gian lận là hành vi cố ý do một hay nhiều người trong Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, các nhân viên hoặc bên thứ ba thực hiện bằng các hành vi gian dối để thu lợi bất chính hoặc bất hợp pháp”.
Như vậy, gian lận và sai sót đều là hành vi sai phạm; trong lĩnh vực tài chính kế toán các hành vi này gây lệch lạc thông tin, phản ánh sai thực tế. Tuy nhiên, hai hành vi này khác nhau về khía cạnh ý thức và mức độ “trong yếu” của sai phạm.
Về mặt ý thức, sai sót là hành vi không có chủ ý, nguyên nhân của sai sót có thể là do năng lực hạn chế hoặc do sao nhãng, thiếu thận trong trong công việc; trong khi đó gian lận là hành vi có chủ ý cố ý gây ra sự sai khác để trục lợi. Từ sự