DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Cấu trúc của của một số đồng phân dioxin 7
Hình 1.2. Cơ chế tạo ra sản phẩm phụ 2,3,7,8-TCDD 9
Hình 1.3. Cấu trúc của phức hợp dioxin receptor 13
Hình 1.4. Cơ chế gây độc của TCDD trong tế bào 13
Hình 3.1. Hoá chất làm rụng lá được rải trong chiến tranh Việt Nam 28
Hình 3.2. Diện tích bị phun rải chất phát quang có chứa dioxin theo các tác
giả 31
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm Dioxin do chiến tranh tại một số điểm tồn lưu ô nhiễm ở Việt Nam - 1
- Hàm Lượng Tcdd Và Độ Độc Tương Tương (Ppt) Trong Máu Người Việt Nam (1991 - 1992)
- Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu Thuộc Lĩnh Vực Của Đề Tài
- Vị Trí Thu Thập Mẫu Đất, Trầm Tích Tại Sân Bay Đà Nẵng
Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.
Hình 3.3. Biểu đồ mô tả tỉ lệ lưu giữ chất phát quang tại các sân bay lưu giữ và trung chuyển mà quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt
Nam 1961 -1971 34
Hình 3.4. Biểu đồ mô tả tỉ lệ các loại chất có trong tổng lượng các chất phát
quang tại sân bay Đà Nẵng 35
Hình 3.5. Tỉ lệ % các loại chất phát quang được lưu giữ, trung chuyển qua
sân bay Biên Hòa trong chiến tranh Việt Nam 38
Hình 3.6. Biểu đồ thể hiện nồng độ ng TEQ (Min, Mean, Max) của PCDD,
PCDF, WHO - TEQ 41
Hình 3.7. Biểu đồ thể hiện so sánh sự thay đổi nồng độ TCDD và sự thay
đổi nồng độ TEQ trong các mẫu đất lấy tại sân bay Đà Nẵng 42
Hình 3.8. Mô phỏng các hoạt động của quá trình đánh giá rủi ro môi trường 53
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm nhưng những hậu quả để lại cho đến hiện nay vẫn rất nặng nề. Một trong những hậu quả đó là vấn đề ảnh hưởng của dioxin có trong hóa chất diệt cỏ mà quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh. Cuộc chiến tranh hóa chất ở Việt Nam diễn ra từ năm 1961 đến năm 1972 đã, đang và tiếp tục gây tác động đặc biệt nghiêm trọng đối với môi trường và con người ở Việt Nam.
Theo số liệu thống kê được Bộ Quốc phòng Mỹ công bố năm 2007 [39], trong khoảng thời gian tiến hành cuộc chiến tranh hóa chất ở Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1972, quân đội Mỹ đã sử dụng khoảng 80 triệu lít hóa chất diệt cỏ và thực hiện khoảng 6000 chuyến bay để phun rải xuống các khu vực ở miền Nam Việt Nam. Trong đó, những khu vực được xác định bị phun rải nhiều nhất gồm có: Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Bình Phước, Sài Gòn, Đồng Nai và Cà Mau. Bên cạnh những khu vực này, tại một số sân bay mà Không quân Mỹ đã sử dụng làm căn cứ để tập kết, lưu giữ và trung chuyển hóa chất diệt cỏ như: Sân bay Đà Nẵng, sân bay Phù Cát – Bình Định và sân bay Biên Hòa – Đồng Nai thì nồng độ dioxin trong môi trường đặc biệt cao.
Dioxin chứa trong hóa chất diệt cỏ mà quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh đã gây nên hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho hàng triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm, cũng như là các vấn đề môi trường nghiêm trọng khác. Cho đến nay, đã có những nghiên cứu với mục đích xác định số lượng người bị phơi nhiễm dioxin ở nước ta; tuy nhiên, có thể nhận các thấy số liệu đưa ra chưa có sự thống nhất. Theo Hoàng Đình Cầu [5], số lượng nạn nhân bị phơi nhiễm dioxin ở Việt Nam khoảng 1 triệu người, trong đó có khoảng 150.000 trẻ em sinh ra bị dị tật bẩm sinh có liên quan đến dioxin. Theo Stellman 2003 [34], trong quá trình nghiên cứu đã căn cứ vào đặc điểm phân bố dân cư và diện tích bị phun rải, cho rằng có khoảng 2,1 – 4,8 triệu người bị phơi nhiễm dioxin trực tiếp; còn theo Hội nạn nhân chất độc màu da cam Việt Nam thì số lượng đó là khoảng 3 triệu người. Vì tính phức tạp của dioxin
và những lý do khác có liên quan, cho đến nay chúng ta vẫn chưa thể xác định được chính xác số lượng người bị phơi nhiễm dioxin trong chiến tranh Việt Nam.
Trong nhiều năm qua, Bộ Quốc phòng đã phối hợp với nhiều cơ quan khác nhau có liên quan trong và ngoài nước tiến hành các nghiên cứu với mục đích xác định mức độ tồn lưu ô nhiễm dioxin; tác động sinh thái và đề xuất các biện pháp ngăn chặn sự lan truyền trong môi trường cũng như xử lý triệt để các điểm tồn lưu ô nhiễm dioxin với nồng độ cao.
Tuy nhiên thực tiễn cho thấy giải quyết các vấn đề liên quan đến tồn lưu ô nhiễm dioxin là vấn đề đặc biệt phức tạp. Đánh giá mức độ ô nhiễm, xác định mức độ ảnh hưởng, rủi ro sinh thái và tác động đến sức khỏe con người là cơ sở đặc biệt quan trọng đối với hoạt động phòng ngừa, cải thiện ô nhiễm, xử lý triệt để - phục hồi môi trường và hạn chế tới mức thấp nhất tác hại của dioxin đối với con người.
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có đủ các điều kiện đáp ứng được những yêu cầu, cần thiết về trang thiết bị, nguồn lực,...để phục vụ cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tồn lưu ô nhiễm dioxin do vậy những dữ liệu khoa học mà chúng ta có được vẫn chưa đáp ứng được các tiêu chí để quốc tế công nhận. Vì vậy, để đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn thì việc tiếp tục có những nghiên cứu về thực trạng ô nhiễm, phân tích, đánh giá được nồng độ dioxin trong môi trường là cần thiết và đóng vai trò vị trí, quan trọng cho việc đề xuất các giải pháp quản lý, khắc phục ô nhiễm, giảm thiểu rủi ro sinh thái, rủi ro cho sức khỏe của con người cũng như giải quyết các vấn đề xã hội khác liên quan đến tồn lưu ô nhiễm dioxin.
Xuất phát từ những vấn đề thực tế nêu trên, được sự nhất trí của Ban giám hiệu, Khoa Sau đại học Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, đồng thời được sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thế Hùng và TS. Nguyễn Anh Tuấn, tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm dioxin do chiến tranh tại một số điểm tồn lưu ô nhiễm ở Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá thực trạng ô nhiễm và bước đầu đề xuất mô hình đánh giá rủi ro và giải pháp giảm thiểu ô nhiễm đối với môi trường do dioxin có nguồn gốc từ chất diệt cỏ mà quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh tại Việt Nam.
3. Yêu cầu
- Thông tin, số liệu thu thập được phải đảm bảo tính trung thực, chính xác và khách quan;
- Các phương pháp nghiên cứu áp dụng cho đề tài phải đảm bảo tính khoa học;
- Đánh giá đầy đủ, chính xác nồng độ dioxin tồn lưu đất trầm tích;
- Đề xuất mô hình đánh giá rủi ro ban đầu đối với môi trường do tồn lưu ô nhiễm dioxin có nguồn gốc từ chiến tranh;
- Giải pháp và kiến nghị đề xuất phải có tính thực tế, khả thi.
4. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa khoa học:
+ Cung cấp các căn cứ khoa học để tiếp tục có những định hướng cho việc nghiên cứu tồn lưu ô nhiễm dioxin ở Việt Nam
- Ý nghĩa thực tế:
+ Xác định được mức độ tồn lưu ô nhiễm dioxin trong đất và trầm tích tại các điểm sân bay trước đây là nơi lưu giữ và trung chuyển dioxin trong chiến tranh Việt Nam.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
* Khái niệm môi trường
Theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2005: Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật [11].
Theo UNESCO, môi trường được hiểu là “ toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng lao động của mình đã khai thác các tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thỏa mãn những nhu cầu của con người”.
* Một số khái niệm liên quan
Theo Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam năm 2005 [11], các khái niệm về ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và chất thải được trình bày như sau :
- Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường, không phù hợp với các tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật.
- Suy thoái môi trường là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu đối với con người và sinh vật.
- Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác.
- Tồn lưu ô nhiễm môi trường:
Theo định nghĩa của Bộ Môi trường New Zealand: “Điểm ô nhiễm (contaminated site) là một vị trí/khu vực mà tại đó chất nguy hại xuất hiện ở nồng độ cho phép và các đánh giá chỉ ra rằng nó gây ra, hoặc có tiềm năng gây ra rủi ro trung hạn hoặc dài hạn cho sức khỏe cộng đồng và môi trường”
Theo nhóm Quản lý tồn lưu ô nhiễm của Canada thì “Điểm ô nhiễm tồn lưu là vị trí/khu vực mà chất ô nhiễm xuất hiện ở nồng độ cao hơn nồng độ thông thường và gây ra, hoặc có thể gây ra, hoặc có thể gây ra các tác động nguy hại trung hạn hoặc dài hạn đến môi trường và sức khỏe cộng đồng, hoặc vượt quá tiêu chuẩn cho phép trong luật”
Theo các Bộ: Môi trường, Giao thông vận tải, Năng lượng và Truyền thông Thụy Sỹ thì “Điểm ô nhiễm tồn lưu là những điểm bị ô nhiễm mà dẫn tới những tác hại hoặc tổn thất, hoặc tiềm tàng nguy cơ gia tăng tác hại”.
Luật Bảo vệ Môi trường năm 1990 của Anh định nghĩa: “Điểm ô nhiễm là mọi khu vực có chứa các loại chất được xác định gây ra những tổn thương nghiêm trọng hoặc có tiềm năng gây ra các tổn thương, hoặc gây ra ô nhiễm hoặc có thể gây ra ô nhiễm cho các nguồn nước được kiểm soát”
Ở Việt Nam, theo Đặng Kim Chi “Điểm ô nhiễm tồn lưu là khu vực đã và đang tồn tại những chất ô nhiễm, có khả năng hoặc tiềm ẩn khả năng gây nhiễm độc môi trường khí, nước, đất và sinh vật cũng như tới sức khỏe con người” (Hội thảo xử lý ô nhiễm tồn lưu Việt- Đức năm 2007).
- Rủi ro môi trường: “Ruûi ro" laø "söï keát hôïp caùc xaùc suaát, hoaëc taàn suaát xaåy ra cuûa moät moái nguy hieåm (hazard) xaùc đònh vaø möùc đoä haäu quaû xaåy ra [31].
Do vậy, có thể hiểu rủi ro môi trường là xác suất tác động có thể có của các yếu tố nguy hại tồn tại hoặc tiềm ẩn trong môi trường (chất ô nhiễm…) và mức độ tác động của các yếu tố nguy hại đó.
"Rủi ro" ="Nguy hại" + "Tiếp xúc" [31].
- Đánh giá rủi ro môi trường: là một kỹ thuật nhằm đánh giá một cách có hệ thống các tác động có hại thực tế hay tiềm tàng của các chất ô nhiễm lên thực vật, động vật và toàn bộ hệ sinh thái [9].
- Quản lý rủi ro môi trường: Quản lý rủi ro môi trường là thiết lập và thực hiện chính sách phản ứng lại rủi ro và giảm bớt rủi ro sao cho chi phí kinh tế nhất. Quản lý rủi ro là cung cấp các thông tin nguy cơ cho các nhà quản lý dự án để phục vụ cho việc ra quyết định [9]. Do vậy, có thể nói đó là một quá trình thực thi các quyết định về lựa chọn hay chấp nhận rủi ro.
1.2. Cơ sở pháp lý
- Căn cứ Nghị quyết số 41 - NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghệ hóa hiện đại hóa đất nước;
- Căn cứ luật BVMT 2005 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006;
- Căn cứ Quyết định số 33/1999/QĐ - TTg ngày 01 tháng 3 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam;
- Quyết định số 67/2004/QĐ - TTg ngày 27 tháng 4 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch hành động giai đoạn 2004 - 2010 khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam;
- Quyết định số 251/2005/QĐ - TTg ngày 12 tháng 10 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về kiện toàn Ban Chỉ đạo quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam;
- Căn cứ Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 theo Quyết định số 256/2003/QĐ ngày 02 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường;
- Căn cứ Quyết định 184/2006/QĐ - TTg về việc thực hiện Công ước Stockholm tại Việt Nam về quản lý các hợp chất POPs;
- Căn cứ Kế hoạch số 70 - KH/TU ngày 28 tháng 04 năm 2005, thực hiện Nghị quyết số 41 - NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá IX) về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước.
1.3. Cơ sở lí luận
* Giới thiệu chung về dioxin
Dioxin là tên gọi chung của một nhóm hàng trăm các hợp chất hóa học tồn tại bền vững trong môi trường cũng như trong cơ thể con người và các sinh vật khác. Tùy theo số nguyên tử Cl và vị trí không gian của những nguyên tử này, dioxine có 75 đồng phân PCDD (poly-chloro-dibenzo-dioxines) và 135 đồng phân PCDF (poly
- chloro -dibenzo - furanes) với độc tính khác nhau. Theo Công ước Stockhoml năm 1972, dioxine còn bao gồm nhóm các PCBs (polyclobiphenyles), là các chất tương tự dioxine, bao gồm 419 chất hóa học trong đó có 29 chất đặc biệt nguy hiểm. Trong số các hợp chất dioxin, TCDD là nhóm độc nhất. TCDD và các dioxin khác được hình
thành như một phụ phẩm của các quá trình hoá học, từ những hiện tượng tự nhiên như núi lửa phun, cháy rừng đến các quá trình nhân tạo như sản xuất hoá chất, thuốc trừ sâu, thép, sơn, giấy, quá trình thiêu và toả khói... Dioxin là sản phẩm phụ của nhiều quá trình sản xuất chất hóa học công nghiệp liên quan đến clo như các hệ thống đốt chất thải, sản xuất hóa chất và thuốc trừ sâu và dây truyền tẩy trắng trong sản xuất giấy [20]. Trong những năm chiến tranh, quân đội Mỹ đã sử dụng hơn 20 loại chất diệt cỏ có chứa hàm lượng dioxin cao để phun rải xuống nhiều vùng thuộc miền Trung và Nam nước ta [34].
Hình 1.1. Cấu trúc của của một số đồng phân dioxin
* Tính chất hóa lý
Dioxin rất bền vững không bị phận hủy dưới tác dụng của axit mạnh, kiềm mạnh, các chất [O]... Dioxin rất ít bay hơi ở t0 thường tan tốt trong các dung môi ko phân cực như n - hexane, tan rất ít trong dung môi phân cực như acetone và hầu như ko tan trong nước (khoảng ~ 0.2 microgam /l nước)... Chu kỳ bán hủy của dioxin từ 5 - 7 năm và có thể lên đến 12 năm. Dioxin là các hợp chất hữu cơ không mùi,