Thống Kê Diện Tích, Dân Số Và Mật Độ Dân Số Các Xã, Thị Trấn.


Chương 3

ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU‌

3.1. Điều kiện tự nhiên

3.1.1. Vị trí địa lí

Vùng đảo Cát Bà có khoảng 367 hòn đảo lớn nhỏ, nằm về phía Nam vịnh Hạ Long và phía Đông thành phố Hải Phòng, có tọa độ địa lý như sau:

Từ 20o44' đến 20o55' vĩ độ Bắc.

Từ 106o54' đến 107o10' kinh độ Đông.

- Phía Bắc và Đông Bắc giáp vịnh Hạ Long được ngăn cách bởi Lạch Ngăn và Lạch Đầu Xuôi của Quảng Ninh.

- Phía Tây và Tây Nam là cửa sông Bạch Đằng, sông Cấm và biển Hải Phòng - Đồ Sơn.

- Phía Đông và Đông Nam giáp vịnh Lan Hạ.

Với diện tích tự nhiên là 29.831,4 ha, trong đó Vườn Quốc gia Cát Bà có 17.362,64 ha (đất liền 10.912,51 ha, mặt biển 6.450,45 ha).

Nhìn chung, vị trí địa lý của Cát Bà thuận lợi để phát huy các hoạt động du lịch sinh thái, đánh bắt thuỷ sản và trao đổi buôn bán bằng đường thuỷ.

3.1.2. Địa hình địa mạo

Đây là vùng quần đảo đá vôi, cùng với hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ của vịnh Hạ Long và Bái Tử Long kéo dài thành hình cánh cung song song với cánh cung Đông Triều.

Trong vùng đảo Cát Bà có hàng trăm hòn đảo, lớn nhất là đảo Cát Bà, độ cao phổ biến từ 100 - 150m. Cao nhất là đỉnh 331m và 322m thuộc dãy Cao Vọng nằm ở phía Bắc đảo Cát Bà thuộc xã Gia Luận.

Nơi thấp nhất có độ cao 39m thuộc Vườn Quốc gia Cát Bà, vùng vịnh Lan Hạ sâu nhất tới 18m (đo lúc mực nước biển trung bình). Địa hình đặc


trưng ở đây là núi đá vôi có vách dốc đứng, lởm chởm đá tai mèo và rất hiểm trở. Trong đó có cả các hang động, các thung lũng Karst được bao bọc bởi các dãy đá vôi, các tùng áng ăn sâu vào bờ đá, các bãi triều có nhiều bùn đất lắng đọng rộng lớn và bằng phẳng, trên mặt có rừng ngập mặn mọc dầy đặc, có các bãi cát phân bố rải rác xung quanh một số đảo nhỏ, có ngấn sóng vỗ, có rạn san hô ngầm và trần san hô viền quanh chân đảo...

3.1.3. Địa chất thổ nhưỡng

3.13.1. Địa chất

Khu vực Cát Bà cũng như phần Đông Bắc Việt Nam có lịch sử phát triển địa chất lâu dài, từng là một bộ phận của cấu trúc uốn nếp caledoni đánh dấu sự kết thúc chế độ địa máng biển sâu Karstzia vào cuối kỷ Silua.

Các khối đá vôi này có tuổi trung bình là các bon muộn - pecmi (250 - 280 triệu năm). Cấu tạo dạng khối, đôi khi phân tẩm khá mỏng, màu xám hay xám trắng nằm xen kẽ với đá vôi silic. Chúng có đầy đủ những dạng của một miền Karst ngập nước biển, do tác động của nước mặt và nước ngầm đã tạo ra một hệ thống các hang động ở các độ cao khác nhau (4m, 15m và 25 - 30m)

- Về phía Bắc và Tây Bắc đảo Cát Bà còn có một diện tích khá lớn các thành tạo đệ tứ không phân chia (Q) tạo nên dạng đồng bằng ven biển, chúng được thành tạo do phù sa sông biển. Lớp trầm tích phủ lên trên khá dày (> 2m), dưới sâu hơn là phù sa hạt thô (độ sâu 5 - 10m) chủ yếu là sỏi cuội và cát... Sát biển hơn (nơi hàng ngày chịu ảnh hưởng của nước triều) có sú, vẹt, đước, trang, mắm, bần... mọc dầy đặc phủ kín hầu hết diện tích này.

3.1.3.2. Thổ nhưỡng

Với nền đá mẹ hầu hết là đá vôi cùng với các điều kiện địa hình Karst và khí hậu nhiệt đới ẩm đã hình thành những loại đất chính như sau:

* Đất Feralit nâu đỏ phát triển trên đá vôi.

* Đất Feralit nâu đỏ dốc tụ chân núi đá vôi hoặc xung quanh thung lũng.


* Đất Feralit nâu vàng phát triển từ các sản phẩm phong hóa từ đá vôi dốc tụ hỗn hợp.

* Đất dốc tụ thung lũng.

* Đất bồi chua mặn.

* Đất mặn sú vẹt.

3.1.4. Khí hậu, thủy văn

3.14.1. Khí hậu

Khí hậu vùng Cát Bà thuộc chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên, do sự khác biệt về địa hình, mức độ ảnh hưởng của biển, lớp phủ thực bì... nhất là hoạt động của các khối khí đoàn, chế độ gió, độ ẩm, chế độ nhiệt, bức xạ, bão và chế độ nước dâng do bão... đã ảnh hưởng rất lớn đến chế độ khí hậu của Cát Bà. Qua số liệu khí hậu do các trạm khí tượng Bạch Long Vĩ, Cô Tô, Hòn Gai, Phủ Liễn và Hòn Dấu cung cấp thì đặc trưng về chế độ khí hậu Cát Bà như sau:

* Tính chất nhiệt đới, có một mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều (từ tháng 5 đến tháng 10) và một mùa đông lạnh, ít mưa (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau).

* Tính biến động thường xuyên của thời tiết và khí hậu do sự luân phiên tranh chấp của các khối không khí có bản chất khác nhau. Khi không khí lạnh tràn về thì chỉ sau 1 ngày đêm (24 tiếng đồng hồ) nhiệt độ không khí có thể giảm từ 8 - 10oC. Khi áp thấp nóng phía Tây xâm lấn thì thời tiết rất khô nóng, nhiệt độ cao nhất tuyệt đối lên tới 37 - 40oC. Khi không khí xích đạo chi phối mạnh lại gây nên thời tiết nóng, ẩm, dễ có dông và mưa lớn do áp thấp nhiệt đới hoặc bão.

* Là đảo ven bờ, khu vực Cát Bà còn chịu ảnh hưởng và chi phối mạnh của biển dưới tác động của chế độ gió đất - biển có tác dụng điều hòa khí hậu, tạo nên mùa đông ẩm hơn và mùa hè mát hơn so với đất liền.


3.1.4.2. Đặc điểm thủy văn, hải văn

* Đặc điểm thủy văn

Cát Bà là quần đảo đá vôi, gần như hệ thống sông suối trên đảo không phát triển. Những dòng chảy tạm thời chỉ xuất hiện trong cơn mưa và ngừng ngay sau khi mưa. Vào mùa mưa, nước đọng lại ở một số vùng nhỏ, thấm dột trong những hang động. Tuy rất ít, nhưng đây lại là nguồn nước khá thường xuyên cho động thực vật trên đảo. Trên một số đảo nhỏ hoặc ven đảo lớn Cát Bà, nơi có nứt gãy kiến tạo chạy qua có xuất hiện "nước xuất Lộ" với dung lượng từ vài lít đến vài chục lít mỗi ngày. Nguồn nước xuất lộ lớn nhất ở suối Thuồng Luồng có lưu lượng trung bình 5 lít/ s (mùa mưa 7,5 lít/ s), mùa khô 2,5 lít/s). Cát Bà có các túi nước ngầm, nguồn gốc thấm đọng từ nước mưa (đã khai thác 6 giếng khoan, trữ lượng khoảng 1500 - 2000m3/ ngày, mức độ khai thác cho phép khoảng 1000m3/ ngày.

* Đặc điểm hải văn

- Thủy triều và mực nước: Thủy triều có tính nhật triều đều rõ ràng (trong một ngày đêm có 1 lần nước lớn và 1 lần nước ròng). Biên độ cực đại gần 4m. Do ảnh hưởng của địa hình nên thường chậm pha hơn Hòn Dấu đến 30'.

Mỗi tháng có 2 kỳ nước cường (mỗi kỳ 11 - 13 ngày). Biên độ dao động 2,6 - 3,6m, xen kẽ là 2 kỳ nước kém (mỗi kỳ 3 - 4 ngày, có biên độ 0,5 - 1m). Trong năm, biên độ triều lớn vào các tháng 6, 7 và 11, 12; nhỏ vào các tháng 3, 4 và 8, 9.

- Sóng vùng Cát Bà thường nhỏ, chủ yếu theo hướng Đông Bắc và Đông Nam. Trung bình 0,5 - 1m. Lớn nhất có thể đạt tới 2,8m.

- Dòng chảy vùng đảo Cát Bà khá phức tạp, tốc độ trung bình 8 - 12 cm/s và có thể đến 50 cm/s ở các lạch hẹp. Chịu ảnh hưởng của dòng chảy mùa, nên có độ đục cao vào mùa hè do dòng nước đục từ Đồ Sơn lên (hướng Tây Nam). Vùng ven bờ Cát Hải dòng triều lên đến Gia Lộc rẽ thành 2 nhánh;


chảy về bến Gót ở bên phải và chảy về Hoàng Châu về bên trái với tốc độ cực đại 90cm/s. Dòng triều xuống có hướng ngược lại.

3.1.5. Thảm thực vật rừng

Do điều kiện địa hình, địa chất, khí hậu, thủy văn... trong vùng đã hình thành nên một kiểu rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới trên quần đảo Cát Bà. Trước đây vài thập kỷ, rừng đã bao phủ phần lớn diện tích đất đai của đảo. Hiện nay rừng tự nhiên đã bị tác động nhiều, làm biến đổi sâu sắc về mặt cấu trúc, tổ thành và tầng tán của rừng. Tuy nhiên, rừng Cát Bà vẫn được coi là một khu rừng độc đáo trên núi đã vôi của cả vùng biển Đông Bắc Việt Nam, với diện tích 13.200 ha (số liệu năm 1997) chiếm 60% diện tích núi đá vôi của đảo, ở đây còn lưu giữ được kiểu rừng nhiệt đới thường xanh mưa mùa đai thấp (còn 852ha rừng nguyên sinh hiện đang được bảo vệ nghiêm ngặt) với hơn 1.561 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 842 chi, 186 họ và 5 ngành thực vật.

Rừng Cát Bà còn nhiều cây gỗ quý như: Trai, Trò đãi, Lát hoa, Đinh, Gội Nếp, Kim Giao... và hơn 661 loài cây có khả năng làm thuốc.

Ngoài ra trên vùng đảo này còn có một số kiểu phụ như:

- Rừng ngập nước ngọt trên núi đá vôi.

- Rừng ngập mặn.

3.1.6. Khu hệ động vật

Mặc dù không phong phú bằng các hệ động vật trong các khu rừng đặc dụng trong đất liền nhưng quần thể động vật trên đảo Cát Bà vẫn có đến 53 loài thú với 18 họ thuộc 8 bộ; 160 loài chim với 46 họ thuộc 16 bộ; 46 loài bò sát với 16 họ thuộc 2 bộ; 21 loài lưỡng cư với 5 họ thuộc 1 bộ.

Động vật biển: Theo số liệu điều tra của Viện Hải dương học tại Hải Phòng cho biết, hiện nay có 900 loài cá, 500 loài thân mềm, 400 loài giáp xác. Trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao như cá hồng, cá song, cá thu, cá


chim... vật đáy khác, 97 loài động vật phù du, 7 loài rắn biển, 4 loài rùa, 1 loài thú...

3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

3.2.1. Thực trạng về dân số và lao động

Dân cư phân bố không đồng đều với mật độ bình quân các xã vùng đệm: 170 người/km2. Thành phần dân tộc chủ yếu là người kinh sống tập trung ở khu vực có vị trí thuận lợi hơn về các hoạt động mưu sinh. Tỷ lệ dân thành thị đạt cao 60,95% trong tổng dân số khu vực đảo Cát Bà (so với tỷ lệ dân thành thị của huyện đạt 54,3%, thành phố Hải Phòng đạt 45,4%).

Bảng 3.1: Thống kê diện tích, dân số và mật độ dân số các xã, thị trấn.


TT

Diện tích tự nhiên (km2)

Diện tích đất liền (km2)

Dân số

Mật độ (người/km2)

1

Gia Luận

90,4

37,6

822

22

2

Phù Long

44,1

13,7

2332

170

3

Hiền Hào

8,8

6

442

74

4

Xuân Đám

10,7

6

987

165

5

Trân Châu

42,4

9,5

1968

207

6

Việt Hải

68,4

32,4

257

8

7

T.T Cát Bà

33,5

1,8

11.338

6.229

Tổng

298,3

107

18.573

170

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

Nghiên cứu đánh giá tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên tại Vườn Quốc gia Cát Bà - Hải Phòng - 6

(Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Cát Hải năm 2018).

3.2.2. Cơ cấu sử dụng đất

Tổng diện tích tự nhiện các xã khu vực đảo Cát Bà là 298,3 ha chiếm 91,3% tổng diện tích toàn huyện Cát Hải. Trong đó, đất nông nghiệp chiếm 6,7 %, đất lâm nghiệp chiếm 51%, đất phi nông nghiệp 37% và đất chưa sử dụng chiếm 5,7 %. Đất lâm nghiệp ở đây bao gồm cả đất có rừng ngập măn, đất rừng trên núi đá vôi, đất rừng trồng… thuộc địa bàn hành chính của các


xã. Đối tượng đất lâm nghiệp ở đây chủ yếu thuộc đối tượng đặc dụng, phòng hộ ven biển (rừng ngập mặn), phòng hộ cảnh quan môi trường (rừng trên núi đá vôi). Do đó, hai loại rừng này không nên sử dụng vào mục đích kinh tế như chuyển đổi nuôi trồng thuỷ sản, khai thác lấy gỗ, củi… mà sử dụng vào mục đích rừng phòng hộ và có thể khai thác sử dụng vào mục đích du lịch sinh thái.

Bảng 3.2: Hiện trạng sử dụng đất các xã, thị trấn khu vực đảo Cát Bà.

Đơn vị tính: Ha



TT


Tổng diện tích tự nhiên

Diện tích các loại đất

Đất nông

nghiệp

Đất lâm

nghiệp

Đất phi

nông nghiệp

Đất chưa sử

dụng

1

Gia Luận

9.042,53

137,28

5.016,16

3.217,2

671,89

2

Phù Long

4.408,98

1.332,22

1.563,89

1.376,13

136,74

3

Hiền Hào

874,42

88,02

682,14

74,23

30,03

4

Xuân Đám

1.073,07

151,37

605,55

182,96

133,19

5

Trân Châu

4.241,54

176,1

3.161,42

769,8

134,22

6

Việt Hải

6.838,96

57,01

3.385,61

3.119,66

276,55

7

T.T Cát Bà

3.351,9

60,22

768,34

2.212,55

310,82

Tổng

29.831,4

2.002,22

15.183,11

10.952,53

1.693,44

Tỷ lệ (%)

100,0

6,7

51

37

5,7

(Nguồn: Phòng Tài nguyên & Môi trường Cát Hải – 2018)

Cát Bà là hòn đảo lớn nằm trong hệ thống các đảo trên Vịnh Bắc Bộ với diện tích khoảng 300 km2 đã được tổ chức UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới vào tháng 12 năm 2004. Về mặt hành chính Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng nhưng trên thực tế đảo Cát Bà gắn liền với di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long và nằm ở cửa ngõ của đường giao thông biển quan trọng. Cát Bà nằm trong khu tam giác tăng trưởng của


miền Bắc Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và là cửa khẩu Quốc tế quan trọng ở miền Bắc nên thuận lợi để phát triển du lịch. Bên cạnh đó, Cát Bà có những bãi tắm, hang động, vũng vịnh kỳ thú lôi cuốn, hấp dẫn với khách du lịch như: Động Thiên Long, Trung Trang, Hang Vẹm, Bãi tắm Cát Cò, Cát Dứa... Hơn nữa, ở vịnh Lan Hạ ngoài bãi tắm còn có các bãi lặn xem san hô và sinh vật dưới biển. Đặc biệt, trên đảo có hệ thống giao thông thuận lợi và Vườn Quốc Gia Cát Bà với nhiều loài động thực vật quí hiếm hấp dẫn du khách với các chuyến dã ngoại đầy mạo hiểm và lý thú. Nếu du khách không muốn đi mạo hiểm thì trên đảo có một đội ngũ lái thuyền có thể chở du khách bằng thuyền đi vòng quanh đảo, đến thăm các hang động, hang luồn và một số đảo nhỏ còn rất nguyên sơ nằm dưới những tầng cây cối phủ xanh rì.

Tóm lại, với những điều kiện kinh tế xã hội như trên cho thấy Cát Bà có nguồn tài nguyên rừng biển rất đa dạng và phong phú, đặc biệt là hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi vốn rất nhạy cảm. Tuy nhiên thảm thực vật rừng ở đây bị đe doạ nghiêm trọng, mặc dù đã và đang có những biện pháp phục hồi nhưng chưa thu được kết quả đáng kể. Điều kiện sinh sống của người dân tại đây có tác động mạnh mẽ vào hoàn cảnh rừng nói chung và quá trình phục hồi rừng nói chung. Vì vậy việc nghiên cứu đặc điểm tái sinh dưới tán rừng để có các giải pháp thúc đẩy quá trình phục hồi hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi tại đây.

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 08/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí