Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế - 2



Schumpeter, học giả thuộc trường phái Áo theo quan điểm sáng tạo và cạnh tranh trong trạng thái động, cho rằng, độc quyền không xoá bỏ cạnh tranh mà chỉ làm thay đổi phương thức cạnh tranh. Có nhiều phương thức cạnh tranh cùng tồn tại như cạnh tranh giá cả, chất lượng, công nghệ mới, nguồn cung ứng mới, phương thức tổ chức và quản lý mới. Sự ra đời của tổ chức độc quyền không có nghĩa là cạnh tranh suy yếu mà làm cho cạnh tranh chuyển sang trạng thái động, đi vào chiều sâu.

Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, quan điểm cạnh tranh đã thay đổi. Sự thay đổi đó dựa trên ba tiền đề cơ bản là : Thứ nhất, thế giới đã chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, và toàn cầu hoá kinh tế thì cần phải tìm hiểu các quy định và luật chơi về cạnh tranh trong nền kinh tế tri thức; Thứ hai, xét từ góc nhìn thương mại quốc tế, cạnh tranh dựa vào lợi thế so sánh trước đây đã chuyển sang cạnh tranh dựa vào quy chế; Thứ ba, Tính tất yếu của hợp tác kinh tế để đổi mới quan điểm từ cạnh tranh đối kháng chuyển sang cạnh tranh có tính hợp tác.

Quan điểm cạnh tranh có thể nâng cao năng suất và làm cho xã hội được lợi ăn sâu vào toàn bộ lý luận phương Tây. Cạnh tranh được coi là động lực làm giảm giá thành, cải tiến chất lượng và tạo sản phẩm mới. Trong nền kinh tế tri thức, tầm quan trọng của cạnh tranh không thay đổi nhưng so với nền kinh tế công nghiệp, quan niệm về cạnh tranh đã thay đổi. Trong nền kinh tế tri thức, cạnh tranh không đơn giản là thay đổi hàm số sản xuất và mở rộng thị phần mà là mở rộng không gian sinh tồn, tư bản hoá giá trị thời gian của cá nhân người tiêu dùng trong không gian thị trường mới. Không gian này lấy tăng trưởng bền vững, chuyên môn hoá ở trình độ cao và sáng tạo ra hệ thống sinh thái làm mục tiêu phát triển.

Như chúng ta biết, lý luận thương mại truyền thống chủ yếu sử dụng lợi thế so sánh để giải thích sự hình thành và phát triển thương mại quốc tế. Điều đó là phù hợp, bởi vì gia nhập thị trường thuận lợi, Chính phủ can thiệp tương đối mềm mỏng. Nhưng trong nền kinh tế toàn cầu hoá, gia nhập thị trường khó khăn, đối thủ cạnh tranh tăng lên và mức độ cạnh tranh gay gắt, không chỉ dựa vào lợi thế lao động rẻ, tài nguyên nhiều để cạnh tranh mà còn dựa vào mức độ can thiệp của Chính phủ mỗi nước và cạnh tranh quốc tế. Cạnh tranh quốc tế chuyển từ lợi thế so sánh



sang cạnh tranh về các quy chế giữa các quốc gia với nhau, giữa các quốc gia với các khối mậu dịch thông qua hiệp định song phương và đa phương, giữa doanh nghiệp với Chính phủ.

Ngày nay, trong thời đại kinh tế tri thức, để kích thích nền kinh tế phát triển, ngoài cơ chế thị trường tự điều tiết, nhà nước can thiệp còn có biện pháp thứ ba là hợp tác, đó là biện pháp tốt nhất hiện nay. Một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường là thực hiện quyết sách phân tán. Phân tán để thích nghi với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tiết kiệm tài nguyên kinh tế, nhưng trong cùng mạng lưới thì có sự hợp tác chặt chẽ. Khi lực lượng sản xuất xã hội phát triển tới trình độ nhất định thì cần có sự hợp tác rộng rãi hơn. Cạnh tranh có tính hợp tác là đặc trưng chủ yếu của tính chất nương tựa lẫn nhau trong trạng thái động. Còn toàn cầu hoá thì đảo lộn đặc trưng đó, kêu gọi sự hợp tác có tính chất cạnh tranh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

Nói chung, thời đại ngày nay là thời đại cạnh tranh và hợp tác để cùng tồn tại, có sự phân hoá lớn và sự cộng sinh giữa độc quyền và chống độc quyền.

Theo Từ điển kinh doanh của Anh, cạnh tranh được xem là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình” {39, tr.3}.

Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế - 2

Kế thừa các quan điểm của các nhà nghiên cứu, ta có thể hiểu: cạnh tranh là quan hệ kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể nhằm giành được những điều kiện thuận lợi nhất để thu lợi nhuận siêu ngạch. Cạnh tranh còn là phương thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường. Tính chất cạnh tranh bị chi phối bởi bản chất kinh tế-xã hội của những chế độ xã hội đó. Với những quan niệm trên, phạm trù cạnh tranh được hiểu là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi {10, tr.9}.



Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành giật người tiêu dùng. Cạnh tranh kích thích các doanh nghiệp thực hiện tốt nhất việc sản xuất hàng hoá và dịch vụ chất lượng cao với giá cả rẻ nhất. Cạnh tranh khuyến khích hoạt động doanh nhân và gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới qua thoả mãn doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và trừng phạt doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Trong điều kiện thị trường lý tưởng, các doanh nghiệp phản ứng linh hoạt và nhanh nhạy đối với thay đổi nhu cầu thị trường và sự gia nhập thường xuyên của các doanh nghiệp mới. Sự gia nhập của doanh nghiệp mới cung cấp tác nhân kích thích cần thiết cho việc điều chỉnh và tốc độ họ thực hiện là thước đo hiệu quả năng lực cạnh tranh của họ. Vì vậy, cạnh tranh là một nhân tố chính của năng lực cạnh tranh.

Tuy nhiên, trên hầu hết các thị trường, các điều kiện thị trường hiếm khi đạt tới điều kiện lý tưởng như trong lý thuyết kinh tế. Trên thực tế, nhiều rào cản tồn tại ngăn cản các thị trường cạnh tranh thực sự, vì thế cản trở các doanh nghiệp điều chỉnh đối với sự thay đổi của điều kiện thị trường và ngăn ngừa việc thành lập các doanh nghiệp mới. Những rào cản như vậy có thể bắt nguồn từ tính không đối xứng của thông tin giữa các doanh nghiệp cạnh tranh liên quan tới thị trường và công nghệ, quy định, quy mô kinh tế và sử dụng thủ đoạn chống cạnh tranh của các doanh nghiệp đã gia nhập thị trường rồi nhằm mở rộng kiểm soát của họ đối với các doanh nghiệp khác hoặc chấm dứt gia nhập thị trường của các doanh nghiệp khác.

Theo nghĩa rộng nhất, cạnh tranh có nghĩa là “tồn tại vì thích ứng nhất” và vì thế, có thể hiểu rằng cạnh tranh thủ tiêu cạnh tranh. Trong điều kiện cạnh tranh gia tăng và theo đuổi lợi nhuận lớn hơn, những doanh nghiệp tham gia thị trường hiện tại có thể bị lôi cuốn để bóp méo hoặc loại trừ cạnh tranh nhằm giành được hoặc lạm dụng sức mạnh thị trường. Vì vậy, cần thiết phải có sự can thiệp bằng chính sách của Chính phủ nhằm duy trì và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh.

1.1.2. Phân loại cạnh tranh:

Cạnh tranh được phân thành nhiều loại dựa trên các tiêu thức khác nhau:

Thứ nhất, xét theo chủ thể kinh tế tham gia thị trường có cạnh tranh giữa những người sản xuất hay người bán với nhau, cạnh tranh giữa những người mua,



cạnh tranh giữa người bán và người mua (trong tác phẩm: “Lao động làm thuê và tư bản” của Mác).

Thứ hai, xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể tham gia thị trường: có cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. C.Mác dùng cách phân loại này nghiên cứu cơ sở khoa học của các phạm trù giá trị thị trường, giá cả sản xuất và lợi nhuận bình quân. Ở đó, Mác chỉ rõ, trước hết để đạt mục tiêu bán cùng một loại hàng hoá đã xuất hiện cạnh tranh trong nội bộ ngành, kết quả là hình thành giá trị thị trường. Sau nữa, để giành nơi đầu tư có lợi giữa các chủ thể kinh tế đã xuất hiện cạnh tranh giữa các ngành, kết quả là hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất.

Ngày nay, các nhà kinh tế học đã phát triển cách phân loại trên của Mác phân loại cạnh tranh thành hai hình thức là: “cạnh tranh dọc” “cạnh tranh ngang”. Cạnh tranh dọc là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất khác nhau. Cạnh tranh ngang là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất như nhau.

Thứ ba, xét theo hình thái cạnh tranh có hai loại cạnh tranh: Cạnh tranh hoàn hảo: là tình trạng cạnh tranh trong đó giá cả của một loại hàng hoá không thay đổi trong toàn bộ địa danh của thị trường, bởi vì người mua, người bán đều biết tường tận về các điều kiện của thị trường. Trong điều kiện đó không có doanh nghiệp nào có đủ sức mạnh có thể ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm của mình trên thị trường; Cạnh tranh không hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực có thể chi phối được giá cả sản phẩm của mình trên thị trường. Cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại: độc quyền nhóm và cạnh tranh độc quyền.

Thứ tư, xét theo công đoạn của sản xuất - kinh doanh, cạnh tranh có ba loại: cạnh tranh trước bán hàng, cạnh tranh trong quá trình bán hàng và cạnh tranh sau bán hàng. Cuộc cạnh tranh này được thực hiện bằng phương thức thanh toán và dịch vụ.

Thứ năm, xét theo tính chất của phương thức cạnh tranh: Trong cạnh tranh, các chủ thể kinh tế sẽ dùng tất cả các biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn, để đạt được mục tiêu kinh tế của mình. Có những biện pháp cạnh tranh hợp pháp hay cạnh



tranh lành mạnh. Ngược lại, có những thủ đoạn phi pháp, nhằm tiêu diệt đối phương chứ không phải bằng nỗ lực vươn lên của mình, gọi là cạnh tranh không lành mạnh.

Thứ sáu, xét theo phạm vi lãnh thổ: cạnh tranh gồm cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế. Cạnh tranh quốc tế có thể diễn ra ở ngay thị trường nội địa, đó là cạnh tranh giữa hàng hoá sản xuất trong nước với hàng ngoại nhập.

Ngoài ra, cạnh tranh còn được phân loại dựa trên tiêu chí khác như điều kiện không gian, lợi thế tài nguyên, nhân lực, đặc điểm tập quán sản xuất, tiêu dùng, văn hoá,... ở từng dân tộc, khu vực, quốc gia khác nhau.

1.1.3. Năng lực cạnh tranh:

Thuật ngữ năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi nhưng vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng cũng như cách thức đo lường năng lực cạnh tranh.

Theo Từ điển thuật ngữ kinh tế học, năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp {39, tr.349}.

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD định nghĩa năng lực cạnh tranh là “khả năng của các công ty, các ngành, các vùng, các quốc gia hoặc khu vực siêu quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế trên cơ sở bền vững{60, tr.3}. Tương tự, Scott và Lodge (1985) đã định nghĩa “năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng của nhà nước quốc gia để sản xuất, phân phối và phục vụ hàng hoá trong nền kinh tế quốc tế cạnh tranh với hàng hoá và dịch vụ đã sản xuất ở các nước khác, và làm như vậy theo một cách thức nhằm nâng cao mức sống” {60, tr.3}. Tuy nhiên, Krugman (1994) đã bác bỏ khái niệm năng lực cạnh tranh quốc gia vì thể hiện vô nghĩa khi áp dụng đối với nền kinh tế quốc gia và M. Porter (1990) có quan điểm cho rằng chỉ có khái niệm năng lực cạnh tranh duy nhất có ý nghĩa ở cấp quốc gia là năng suất quốc gia {60, tr.3}.

Năng lực cạnh tranh có ý nghĩa nhất và không gây tranh cãi khi được áp dụng đối với doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh và được đánh giá là có thể đứng vững cùng các doanh nghiệp khác, khi sản phẩm thay thế hoặc sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp sản phẩm tương tự với đặc tính về chất lượng và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác định năng lực cạnh tranh của một doanh



nghiệp hay một ngành cần xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh doanh hàng hoá hay dịch vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp.

Theo quan điểm vĩ mô, năng lực cạnh tranh là vấn đề quốc gia và mục tiêu cơ bản là nâng cao thu nhập thực tế cho cộng đồng. Theo quan điểm này, năng lực cạnh tranh là khái niệm rất rộng bao quát tất cả các khía cạnh kinh tế, văn hoá và xã hội, ảnh hưởng đến thành quả của một quốc gia trên thị trường quốc tế. Phản ánh quan điểm vĩ mô này, năng lực cạnh tranh được định nghĩa là mức độ theo đó một quốc gia có thể, trong điều kiện thị trường tự do và bình đẳng, sản xuất hàng hoá và dịch vụ đáp ứng những thử nghiệm của thị trường quốc tế trong khi duy trì và mở rộng một cách tương ứng thu nhập thực tế của người dân nước đó trong dài hạn {52, tr. 371}.

Mặt khác, theo quan điểm vi mô, hành vi cụ thể của doanh nghiệp quyết định năng lực cạnh tranh. Hệ thống phân tích cạnh tranh của M.Porter (Porter, 1980) nhấn mạnh sự hấp dẫn ngành và tính chất của nó, như khả năng nâng cao sức mạnh của hãng đối với người mua và người cung cấp, ngăn cản hãng mới gia nhập ngành và loại bỏ đối thủ cạnh tranh, như là những yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh và khả năng lợi nhuận trong dài hạn{52, tr372}.

Dựa trên cả quan điểm vi mô và vĩ mô cho thấy, các doanh nghiệp và các quốc gia đối mặt với những thách thức và ưu tiên rất khác nhau vì họ chuyển từ nền kinh tế dựa trên tài nguyên sang nền kinh tế tri thức. Vì vậy, nhân tố chính đóng góp đối với năng lực cạnh tranh toàn cầu, và nhờ đó nâng cao mức sống, sẽ khác với các nền kinh tế ở mức độ phát triển khác nhau (Porter et al., 2001) {52, tr.372}.

Không xét đến những định nghĩa cụ thể trên, khái niệm năng lực cạnh tranh xuất hiện là trung tâm đối với phát triển con người, tăng trưởng và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đối với doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh có nghĩa là tạo ra những lựa chọn tăng trưởng mới, mang lại giá trị cho các cổ đông. Đối với xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh là tạo ra việc làm mới và điều kiện sống tốt hơn (Diễn đàn kinh tế thế giới, 2001) {52, tr.372}. Tạo ra sự giàu có là động cơ của tăng trưởng kinh tế và động lực chính của đổi mới. Mục tiêu căn bản của năng lực cạnh tranh là duy trì và tăng thu nhập thực tế của công dân, phản ánh mức sống tăng lên của đất nước.



Toàn cầu hoá và tự do hoá, diễn ra nhờ những tiến bộ công nghệ nhanh chóng, đang tạo ra sự năng động cạnh tranh mới và làm cho những yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh phức tạp hơn nhiều. Như đã đề cập trên, hiệu quả cao hơn là nguồn gốc của năng lực cạnh tranh. Trong thương mại quốc tế, trước đây, năng lực cạnh tranh được xác định qua tỷ giá, chi phí và giá cả. Ngày nay, có sự phân biệt giữa năng lực cạnh tranh tĩnh và năng lực cạnh tranh động. Trước đây, nhấn mạnh chủ yếu vào cạnh tranh giá, nhờ đó các doanh nghiệp cạnh tranh trên cơ sở nguồn lực nhận được như chi phí lao động thấp và nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ. Trong trường hợp này, duy trì năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào việc duy trì hoặc hạ thấp chi phí sản xuất. Đây là cơ sở theo đó nhiều doanh nghiệp của các nước đang phát triển tiến hành cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh động được kết hợp với sự thay đổi bản chất của cạnh tranh. Cạnh tranh đặt phần thưởng không chỉ lên quan hệ giữa giá cả và chi phí mà còn lên khả năng cấp độ doanh nghiệp để nghiên cứu, điều chỉnh nhanh chóng đối với các điều kiện thị trường mới và đổi mới. Thuật ngữ “đổi mới” ở đây có nghĩa là doanh nghiệp không chỉ đổi mới trong phạm vi công nghệ mà còn thay đổi nhanh và liên tục trong lĩnh vực tổ chức đầu tư, tạo ra năng lực sản xuất, xây dựng và nâng cấp khả năng công nghệ hay học cách đối phó với những thay đổi. Do vậy, ở đây, năng lực cạnh tranh được hiểu là khả năng của các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và dịch vụ tham gia vào cuộc thử nghiệm của cạnh tranh quốc tế trong khi nâng cấp khả năng công nghệ.

Xuất phát từ thực tiễn ta thấy, lợi thế cạnh tranh được tạo ra trong các ngành chứ không phải trong nền kinh tế nói chung. Ngược lại, lợi thế so sánh không dẫn tới lợi thế cạnh tranh, nó có thể là cơ sở để xây dựng lợi thế cạnh tranh. Như đã đề cập trên, năng lực cạnh tranh là một quá trình đổi mới, nâng cấp và tăng các hoạt động tạo ra giá trị liên tục. Trên thị trường quốc tế và nội địa, áp lực cạnh tranh đóng vai trò căn bản, nhưng những nhân tố trong nước chứ không phải nhân tố toàn cầu là nhân tố quan trọng, quyết định năng lực cạnh tranh.

Nói chung, thành công của nâng cao năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa hai lĩnh vực công-tư trong việc xây dựng tầm nhìn chiến lược và kế hoạch hành động. Điều cần thiết là tạo ra đầu vào có mục tiêu kinh tế chung và rộng rãi, khuyến khích tư nhân cung cấp hàng hoá công cộng vì lợi ích chung.

1.1.4. Các cấp độ năng lực cạnh tranh:



Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành bốn cấp độ: năng lực cạnh tranh cấp quốc gia, năng lực cạnh tranh cấp ngành, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh sản phẩm hàng hoá.

Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ phân biệt trên có mối tương quan mật thiết và phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, của ngành Du lịch nói riêng cần thiết phải đặt nó trong mối tương quan chung giữa các cấp độ cạnh tranh nêu trên.

Một mặt, toàn bộ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp của một nước tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia đó. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia thể hiện qua môi trường kinh doanh, cạnh tranh quốc tế và trong nước. Trong đó, các cam kết về hợp tác kinh tế quốc tế, các chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và của sản phẩm hàng hoá trong quốc gia đó. Vì vậy, cần đề cập tới năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia và của sản phẩm trước khi đề cập đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Còn năng lực cạnh tranh cấp ngành có mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của năng lực cạnh tranh quốc gia và của sản phẩm tương tự như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

1.1.4.1. Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia: Tại Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 1997, trong bản Báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể đã định nghĩa: “năng lực cạnh tranh cấp quốc gia là năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và đặc trưng kinh tế khác” {20, tr.9}.

Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể được hiểu là việc xây dựng môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố hiệu quả nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Môi trường cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa lớn đối với việc thúc đẩy quá trình đầu tư, tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà doanh nghiệp theo tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ. Mặt khác, môi trường cạnh tranh thuận lợi sẽ tạo cơ sở cho Chính phủ đề ra chủ trương và hoạch định chính sách phát triển, cải thiện đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập ngày càng có hiệu quả, sẽ ảnh hưởng quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

1.1.4.2. Năng lực cạnh tranh cấp ngành: là năng lực duy trì hay gia tăng thị phần trên thị trường cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ của ngành. Năng lực cạnh

Xem tất cả 134 trang.

Ngày đăng: 19/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí