Nâng cao hiệu quả áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam - 2

CHƯƠNG I‌‌

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ HIỆU QUẢ ÁP DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM


I. TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

1.1. Khái niệm Thương mại điện tử

Là một lĩnh vực mới, tên gọi và các định nghĩa của Thương mại điện tử có nhiều và nội dung cũng không hoàn toàn thống nhất. Trong nhiều văn bản khác nhau, chúng ta có thể gặp những từ như “Thương mại trực tuyến” (Online trade), “Thương mại khiển học” (Cyber trade), “Kinh doanh điện tử” (Electronic business), “Thương mại không giấy tờ” (paperless commerce),… Các từ vựng này được sử dụng nhiều rồi được đưa vào văn bản pháp luật quốc tế. Nhiều khi với các tên gọi khác nhau, người ta vẫn dùng và hiểu theo cùng một nội dung. Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về TMĐT.

Thương mại điện tử (TMĐT) là khái niệm do tập đoàn IBM khởi xướng năm 1997 thông qua một chiến dịch quảng cáo. Theo IBM, TMĐT là những gì diễn ra khi kết nối khả năng rộng lớn của mạng Internet với các hệ thống công nghệ thông tin truyền thống. Theo đó, phạm vi của TMĐT sẽ bao gồm mạng cục bộ, mạng ngoại bộ và mạng Internet1 . Cách định nghĩa này

chủ yếu nhấn mạnh đến phương tiện kỹ thuật của TMĐT và không nhìn TMĐT dưới góc độ kinh tế.


1 Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI): Chiến dịch thương mại điện tử của IBM được gọi là e-commerce. Sản phẩm mà IBM cung cấp là Net.Commerce, một phần mềm ứng dụng cho doanh nghiệp B2B (doanh nghiệp tới doanh nghiệp) và B2C (doanh nghiệp tới người dùng). Giá khởi đầu của Net.Commerce là 4,999 USD dành cho các doanh nghiệp hoặc chủ kinh doanh muốn thiết lập cửa hàng trực tuyến. Net.Commerce là một phần mềm mà trên đó các giải pháp về thương mại điện tử của IBM được thực hiện.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Khó có thể đưa ra được một khái niệm thống nhất, rõ ràng và hoàn chỉnh về thương mại điện tử. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát thì các định nghĩa về TMĐT được chia thành hai nhóm quan điểm:

- Khái niệm TMĐT theo nghĩa hẹp:

Nâng cao hiệu quả áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam - 2

Theo nghĩa hẹp, TMĐT chỉ đơn thuần bó hẹp trong việc mua bán hàng hoá và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử, nhất là qua Internet và các mạng viễn thông khác.

Theo cách hiểu này, TMĐT thường được đồng nhất với khái niệm TMĐT qua Internet (hay còn gọi là thương mại Internet – Internet commerce). Đó là việc tiến hành hoạt động thương mại thông qua mạng Internet hay việc bán và mua sản phẩm dịch vụ thông qua các cửa hàng trực tuyến. Với nghĩa này, TMĐT còn gọi là Thương mại trực tuyến (online trade) hay thương mại điều khiển học (cybertrade).

Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), “Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phầm giao nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet”.

Theo Uỷ ban Thương mại điện tử của Tổ chức hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC), “Thương mại điện tử là công việc kinh doanh được tiến hành thông qua truyền thông số liệu và công nghệ tin học kỹ thuật số”.

- Khái niệm TMĐT theo nghĩa rộng:

Theo nghĩa rộng, TMĐT là toàn bộ chu trình và các hoạt động kinh doanh liên quan đến tổ chức, công ty hay cá nhân. Đó là các giao dịch tài chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu, chuyển tiền điện tử và các hoạt động như gửi/rút tiền bằng thẻ tín dụng.

Luật mẫu về Thương mại điện tử của Uỷ ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) định nghĩa: “Thương mại điện tử là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện điện tử, không cần Internet ra giấy bất cứ công đoạn nào của toàn bội quá trình giao dịch”.

Thuật ngữ “thương mại” (commerce) cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại (commercial) bao gồm, nhưng không chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng (factoring), cho thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình; tư vấn, kỹ thuật công trình (engineering); đầu tư; cấp vốn, ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng, liên doanh và các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ”.

Theo định nghĩa này, có thể thấy phạm vi hoạt động của thương mại điện tử rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, trong đó hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất nhỏ trong TMĐT.

Theo Uỷ ban châu Âu: “Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh”.

“Thương mại” (commerce) trong “thương mại điện tử” không chỉ là buôn bán hàng hóa và dịch vụ theo cách hiểu thông thường, mà bao quát một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, trong đó việc áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của hầu hết nền kinh tế.

Tuy nhiên, Liên Hiệp Quốc đã đánh giá rằng nhìn chung các định nghĩa nêu trên đều vẫn mang đặc tính mô tả và không thể hiện được đầy đủ bản chất

của TMĐT. Những cố gắng xây dựng một chuẩn thích hợp để tạo điều kiện cho công tác nghiên cứu và thông kê của các tổ chức quốc tế lại làm xuất hiện một lượng không nhỏ các định nghĩa không thống nhất, thậm chí nhiều trường hợp trái ngược. Như vậy, nhằm góp phần giúp các nước nhất là các nước đang phát triển nhận thức đầy đủ về TMĐT trên mọi khía cạnh để xây dựng cho mình chiến lược thành công trong lĩnh vực này, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra định nghĩa về TMĐT xét trên hai khía cạnh:

Khía cạnh thứ nhất (còn gọi là định nghĩa theo chiều ngang): phản ánh các bước của TMĐT hay cụ thể hơn là cách định nghĩa theo chu trình kinh doanh. “TMĐT là việc thực hiện toàn bộ chu trình kinh doanh bao gồm marketing (M), bán hàng (S), phân phối (D) và thanh toán (P) thông qua các phương tiện điện tử”.

Khía cạnh thứ hai (còn gọi là định nghĩa theo chiều dọc): phản ánh TMĐT dưới góc độ Nhà nước. Cách định nghĩa này nhấn mạnh tới vai trò hoạt động của các Nhà nước, các tổ chức và các doanh nghiệp có liên quan và được mô hình hóa bằng mô hình IMBSA.

Mô hình IMBSA đề cập tới các lĩnh vực cần xây dựng để phát triển TMĐT bao gồm:

I (Infrastructure): Cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin và truyền thông cho sự phát triển TMĐT.

Theo Báo cáo Thương mại Điện tử của Vụ Thương mại, số người dùng Internet năm 2007 tăng 26,3% so với năm 2006, đạt 18,5 triệu người, chiếm 22,0% dân số. Tỷ lệ người dùng Internet đã vượt mức trung bình của thế giới (19,1%). Đặc biệt, số lượng các thuê bao băng thông rộng tăng nhanh trong hai năm 2006 – 2007. Tổng số thuê bao vào cuối năm 2007 đạt gần 1,3 triệu, gấp 6 lần so với thời điểm tháng 12/2005 (0,21 triệu thuê bao). Xu hướng hội tụ công nghệ giữa dịch vụ viễn thông, truyền thông và Internet cũng đang góp phần đẩy nhanh tốc độ phổ cập Internet. Vì xét cho cùng, nếu không phổ cập

dịch vụ Internet thì không thể phát triển thương mại điện tử được. Chính vì vậy, UNCTAD đã đưa ra lĩnh vực đầu tiên cần phát triển chính là Cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin và truyền thông, tạo lớp vỏ đầu tiên cho TMĐT.

M (Messages): Các vấn đề liên quan đến Thông điệp dữ liệu.

Thông điệp chính là tất cả các loại thông tin được truyền tải qua mạng, qua Internet trong thương mại điện tử. Ví dụ như Hợp đồng điện tử, các chào hàng, hỏi hàng qua mạng, các chứng từ thanh toán điện tử,…đều được coi là thông điệp, chính xác hơn là “thông điệp dữ liệu”. Tại các nước cũng như ở Việt Nam, những thông điệp dữ liệu khi được sử dụng trong các giao dịch TMĐT đều được thừa nhận giá trị pháp lý. Điều này được thể hiện trong các Luật mẫu của Liên Hợp Quốc về giao dịch điện tử hay Luật TMĐT của các nước, cũng như trong Luật Giao dịch điện tử của Việt Nam.

B (Basic Rules): Các quy tắc cơ bản điều chỉnh chung về TMĐT. Đó chính là các luật điều chỉnh những lĩnh vực liên quan đến TMĐT trong một nước hoặc khu vực và quốc tế.

Chẳng hạn như ở Việt Nam hiện nay có Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ Thông tin. Đối với khu vực có Hiệp định khung về TMĐT của các khu vực như EU, ASEAN,… Hiệp định về Công nghệ thông tin của WTO, về Bảo hộ sở hữu trí tuệ, và việc thừa nhận giá trị pháp lý khi giao dịch xuyên “biên giới quốc gia”.

S (Sectoral Rules/Specific Rules): Các quy tắc riêng, điều chỉnh từng lĩnh vực chuyên sâu của TMĐT, như: Chứng thực điện tử, chữ ký điện tử, Ngân hàng điện tử (thanh toán điện tử). Thể hiện dưới khía cạnh pháp luật ở Việt Nam có thể là các Nghị định chi tiết về từng lĩnh vực. Hay các tập quan thương mại quốc tế mới như Quy tắc về xuất trình chứng từ điện tử trong thanh toán quốc tế (e – UCP), hay quy tắc sử dụng vận đơn điện tử (của Bolero).

A (Applications): Các ứng dụng TMĐT, hay các mô hình kinh doanh thương mại điện tử cần được điều chỉnh, cũng như đầu tư, khuyến khích để phát triển. Khi các nền tảng I, B, M và S đã đạt được thì việc ứng dụng TMĐT và xây dựng chiến lược phù hợp sẽ mang lại thành công.

Ví dụ như: Các mô hình Cổng TMĐT quốc gia (ECVN.gov), các sàn giao dịch TMĐT B2B (như Vnemart.com) cũng như các mô hình B2C (golmart.com.vn, Amazon.com), C2C (đấu giá Ebay.com), hay các website của các công ty xuất nhập khẩu… đều được coi chung là các ứng dụng TMĐT.

Như vậy, định nghĩa TMĐT theo chiều dọc đưa ra danh sách các nền tảng cần thiết cho việc xây dựng và phát triển TMĐT đối với một quốc gia. Các chính phủ có thể lựa chọn và xác định một môi trường thích hợp cho sự phát triển TMĐT tại quốc gia mình. Đồng thời các tổ chức kinh tế cũng thấy được những công việc cần làm để phát triển TMĐT trên quy mô toàn cầu như việc xây dựng các tiêu chuẩn, quy định, quy tắc cũng như các hướng dẫn…

Từ hai định nghĩa trình bày ở trên, có thể rút ra hai nhận xét về TMĐT. Thứ nhất, TMĐT bao gồm toàn bộ chu trình và các hoạt động kinh doanh của các chính phủ, các tổ chức, các công ty và cá nhân được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử. Thứ hai, TMĐT phải được xây dựng trên một nền tảng vững chắc về cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở hạ tầng về kinh tế, công nghệ, pháp lý và nguồn nhân lực).

Do đó, định nghĩa chung nhất về TMĐT theo cách nhìn của Liên Hiệp Quốc có thể được trình bày như sau: “ TMĐT bao gồm toàn bộ chu trình và các hoạt động kinh doanh được thực hiện qua các phương tiện điện tử dựa trên nền tảng vững chắc về cơ sở hạ tầng kinh tế, công nghệ, pháp lý và nguồn nhân lực có liên quan”.

Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy được TMĐT mang một số đặc trưng sau:

TMĐT là một hình thái hoạt động thương mại phát triển từ thương mại truyền thống. TMĐT cũng thực hiện nhiều bước giao dịch giống như thương mại truyền thống nhưng cũng có nhiều khác biệt. TMĐT tạo cho các bước giao dịch nhanh hơn, rẻ hơn, phong phú hơn và thuận tiện hơn. Việc gửi và nhận tài liệu theo kiểu truyền thống trên giấy phức tạp, mất nhiều thời gian và chi phí, trong khi đó, việc tạo, gửi và nhận tài liệu trên cơ sở dữ liệu máy tính rất thuận tiện, nhanh chóng và ít tốn kém hơn. So với hoạt động thương mại truyền thống, TMĐT có một số điểm khác biệt cơ bản sau:

Các bên tiến hành giao dịch trong TMĐT không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.

Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp gỡ trực tiếp để tiến hành giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyễn tắc vật lý như chuyển tiền, séc, hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Các phương tiện viễn thông như fax, telex,... chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để truyền tải thông tin một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch.

TMĐT cho phép mọi người cùng tham gia từ các vùng xa xôi hẻo lánh đến các khu vực đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp nơi đều có cơ hội nganh nhau tham gia vào thị trường toàn cầu và không đòi hỏi nhất thiết phải có mối quen biết với nhau.

Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tài của khải niệm biên giới quốc gia, còn TMĐT được thực hiện trong một thị trường không có biên giới (thị trường thống nhất toàn cầu). TMĐT trực tiếp tác động đến môi trường cạnh tranh toàn cầu.

TMĐT càng phát triển thì máy tính cá nhân càng trở thành cửa sổ cho doanh nghiệp hướng ra thị trường trên khắp thế giới. Với TMĐT, một doanh nhânh dù mới thành lập đã có thể kinh doanh ở Mỹ, Nhật Bản, Đức,… mà không hề phải bước ra khỏi nhà, một công việc trước kia phải mất nhiều năm.

Trong mọi hoạt động giao dịch TMĐT đều có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể.

Trong TMĐT, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch giống như giao dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba đó là nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực… Họ là những người tạo môi trường cho các giao dịch TMĐT. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch TMĐT, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch TMĐT.

Đối với thương mại truyền thống, mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với TMĐT, mạng lưới thông tin chính là thị trường.

Thông qua TMĐT, nhiều loại hình kinh doanh mới được hình thành.

Ví dụ: Những dịch vụ gia tăng trên mạng máy tính hình thành nên các nhà trung gian ảo làm các dịch vụ môi giới kinh doanh và tiêu dùng; các siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy tính.

Các trang web khá nổi tiếng như Yahoo!, America Online hay Google đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin trên mạng. Các trang web đã trở thành các “khu chợ” khổng lồ trên Internet. Với mỗi lần nhấn chuột, khách hàng có thể truy cập vào hàng ngàn cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào thăm rồi mua hàng là rất cao. Người tiêu dùng đã bắt đầu mua một số loại hàng trước đây được coi là khó bán trên mạng. Nhiều người sẵn sàng trả thêm một chút tiền còn hơn là phải đi tới tận cửa hàng. Một số công ty đã mời khách may đo quần áo trên mạng, tức là khách hàng chọn kiểu, gửi số đo theo hướng dẫn tới cửa hàng (qua Internet) rồi sau một thời gian nhất định nhận được bộ quần áo theo đúng yêu cầu của mình. Điều tưởng như không thể thực hiện được này cũng cũng có rất nhiều người hưởng ứng.

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 07/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí