Mô Tả Một Số Đặc Điểm Dịch Tễ Nhiễm Khuẩn Hô Hấp Cấp Ở Trẻ Dưới 5 Tuổi Tại Huyện Chợ Mới, Tỉnh Bắc Kạn.


Vì vậy, thực hiện tốt phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp trẻ em sẽ giảm được tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở trẻ, đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi, từ đó sẽ giảm kinh phí chi trả về thuốc, dịch vụ y tế, giảm sự quá tải vào điều trị tại các bệnh viện. Đồng thời, kết quả phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp sẽ góp phần làm giảm thời gian bà mẹ phải nghỉ việc để chăm sóc trẻ ốm. Xuất phát từ những vấn đề trên, Thế giới cũng như Việt Nam đã xem xét, đề xuất các giải pháp can thiệp. Để tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp đòi hỏi nhiều ngành, nhiều cấp phối hợp với ngành y tế cùng với sự tham gia tích cực của nhân dân tại các cơ sở cộng đồng. Nâng cao khả năng xử trí trẻ mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp theo phác đồ của cán bộ y tế tuyến cơ sở và sử dụng thuốc kháng sinh hợp lý cho các trường hợp trẻ mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp. Nâng cao sự hiểu biết của các bà mẹ và người chăm sóc trẻ đối với nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ em thông qua cán bộ y tế xã và nhân viên y tế thôn bản, đồng thời phát hiện được các yếu tố nguy cơ gây bệnh để có biện pháp phòng bệnh hữu hiệu đối với căn bệnh này.Thực hiện tốt phòng chống nhiễm khuẩn hô hấp cấp trẻ em sẽ góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống cho nhân dân nói chung và cho trẻ em nói riêng, tham gia tích cực vào việc thực hiện luật Bảo vệ sức khoẻ trẻ em [31], [15], [61].

Vấn đề đặt ra hiện nay, tỷ lệ nhiễm khuẩn hô hấp cấp trẻ em ở khu vực miền núi, vùng cao, dân tộc thiểu số là bao nhiêu? Các yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn hô hấp cấp là gì? Giải pháp nào phù hợp với cộng đồng dân tộc miền núi để giảm thiểu vấn đề đó? Còn ít nghiên cứu đề cập đến. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Một số đặc điểm dịch tễ và hiệu quả can thiệp đối với nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn” nhằm 3 mục tiêu sau:

1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn.

2. Xác định một số yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp.

3. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp đối với nhiễm khuẩn hô hấp cấp tại cộng đồng.


Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 140 trang tài liệu này.

1.1. Tình hình bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp

1.1.1. Tình hình mắc bệnh và tử vong do nhiễm khuẩn hô hấp cấp trên thế giới

Hiện nay tại các nước đang phát triển, các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp vẫn là nguyên nhân mắc bệnh và tử vong hàng đầu ở trẻ em dưới 5 tuổi, chủ yếu do viêm phổi. Viêm phổi mắc phải cộng đồng là một nhiễm khuẩn nặng và phổ biến xảy ra ở tất cả trẻ em trên toàn thế giới. Ở các nước đang phát triển, theo số liệu của Tổ chức y tế Thế giới (TCYTTG), mỗi trẻ em trung bình trong 1 năm mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp (NKHHC) từ 4 - 9 lần. Ước tính trên toàn cầu mỗi năm có khoảng 2 tỷ lượt trẻ mắc NKHHC chiếm 19-20 % số tử vong dưới 5 tuổi trên toàn cầu. Tại khu vực Đông Nam Á tử vong do nhiễm khuẩn hô hấp vẫn là nguyên nhân cao nhất (25 %) trong các nguyên nhân gây tử vong ở trẻ, tiếp theo là tiêu chảy (14 %) và sơ sinh (32 %) kết hợp với các bệnh khác, còn lại là các nguyên nhân khác [32], [145].


Hình 2 1 Phân bố tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi theo nguyên nhân của 6 vùng trên 1

Hình 2.1. Phân bố tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi theo nguyên nhân của 6 vùng trên Thế giới (WHO – 3/2000, Afr=Châu Phi; Amr=Châu Mỹ; Emr=Trung Cận Đông; Eur=Châu Âu; Sear=Đông Nam Á; Wpr=Tây Thái Bình Dương

(Nguồn số liệu từ Lancet [89])


Theo Ruan I. (2005), ước lượng tỷ lệ viêm phổi ở trẻ em dưới 5 tuổi trên phạm vi toàn cầu trong các nghiên cứu dọc dựa vào cộng đồng cho thấy: Tỷ lệ mới mắc các đợt viêm phổi ở các nước đang phát triển là 0,29 đợt/năm/trẻ. Ở các nước phát triển là 0,026 đợt/ năm/trẻ và trên 95 % các đợt viêm phổi ở trẻ em trên thế giới xảy ra ở các nước đang phát triển [127]. Năm 2004, Michael Ostapchuk và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu tình hình viêm phổi mắc phải ở cộng đồng thuộc Châu Âu và Bắc Mỹ. Tác giả đã đưa ra thuật ngữ “viêm phổi mắc phải cộng đồng - Community Acquired Pneumonia” (CAP) đề cập tới một loại viêm phổi xảy ra ở một người trước đó khoẻ mạnh, người mắc phải bệnh này ở bên ngoài bệnh viện. CAP là một trong những nhiễm khuẩn phổ biến và nặng nhất ở trẻ em với số mới mắc hàng năm là từ 34 - 40 ca trên 1000 trẻ ở Châu Âu và Bắc Mỹ [109], [114], [145]. Mặc dù tử vong do CAP là hiếm gặp ở các nước công nghiệp phát triển nhưng lại là bệnh phổ biến nhất ở trẻ dưới 5 tuổi. Ở các nước đang phát triển không những tỷ lệ mắc bệnh này cao mà còn gây tử vong cao [115]. Nhiễm khuẩn hô hấp dưới là một trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu ở trẻ tại các nước đang phát triển [114]. Nghiên cứu của Baqui A. H và cộng sự (2007) ở Bangladesh cho thấy, tỷ lệ nhập viện ở trẻ dưới 2 tuổi là cao hơn so với trẻ lớn tuổi, và khoảng 25 % các trường hợp tử vong ở trẻ < 5 tuổi và khoảng 40 % tử vong ở trẻ nhỏ liên quan với nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp [82].

Nghiên cứu của Garces-Sanchez M. D. (2005) về tỷ lệ viêm phổi mắc phải cộng đồng ở Valencia, Tây ban Nha là 30,3 ca/1000 trẻ tuổi < 5 tuổi/ năm và tỷ lệ nhập viện là 7,03 ca/1000 trẻ < 5 tuổi/năm [103]. Năm 2005, David Burgner và cộng sự đã tìm hiểu về tình hình viêm phổi ở trẻ em của Australia, cho thấy viêm phổi ở trẻ em là 5-8/1000 năm – trẻ. Viêm phổi là nguyên nhân chính dẫn đến nhập viện ở trẻ dưới 5 tuổi [97]. Varinder Singh (2005) đã đề cập đến gánh nặng viêm phổi ở trẻ em Châu Á và cho rằng viêm phổi là nguyên nhân gây tử vong khoảng 2 triệu trẻ em mỗi năm trên toàn thế giới (20 % trong tất cả tử vong ở trẻ), gần 70 % trong số các trường hợp tử vong xảy ra ở Châu Phi và Đông Nam Châu Á. Hầu hết các nước ở Châu Phi và Châu Á, trẻ em bị viêm phổi cao gấp từ 2-20 lần so với trẻ em ở Hoa Kỳ [134]. Yaron Shoham (2005) đã tiến hành một nghiên cứu về viêm phổi mắc phải cộng đồng ở trẻ em Miền Nam Israel, nhằm đánh giá gánh nặng của CAP lên trẻ em và gia đình của chúng bao gồm chi phí và giảm chất lượng sống, tác giả đưa ra nhận định: Viêm phổi mắc phải cộng đồng vẫn còn là một bệnh nặng và phổ biến ở trẻ, nó có ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội, gây ra gánh nặng cho cả người bệnh và gia đình của họ bao gồm chi phí, nghỉ việc và giảm chất lượng sống [133], [145].


1.1.2. Tình hình mắc bệnh và tử vong do nhiễm khuẩn hô hấp cấp tại Việt Nam

Hiện nay, viêm phổi vẫn là nguyên nhân tử vong cao nhất (31,3 %) trong tổng số các nguyên nhân gây tử vong trẻ em, cao gấp 6 lần so với tử vong do tiêu chảy (5,1 %). Trong số trẻ tử vong do viêm phổi, chỉ có 52 % trẻ được chăm sóc trước khi tử vong. Nguyên nhân trẻ không được chăm sóc y tế trước khi tử vong hoặc tử vong trước 24 giờ tại bệnh viện cao là vì các bà mẹ không phát hiện được dấu hiệu của bệnh, hoặc khi trẻ mắc bệnh không được chữa trị đúng đắn, đến khi bệnh nặng chuyển đi bệnh viện thì bệnh đã quá nặng [32].

Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Hữu Kỳ (2003) đã tiến hành nghiên cứu tình hình và một số yếu tố nguy cơ chủ yếu của NKHHC trẻ em dưới 5 tuổi tại Thủy Dương - Hương Thủy- Thừa thiên Huế cho thấy: Tỷ lệ mắc NKHHC tại cộng đồng ở đây còn cao (39,7 %), vượt trội hơn so với các bệnh khác cùng thời điểm nghiên cứu và tăng cao ở nhóm trẻ dưới 1 tuổi, tỷ lệ NKHHC ở trẻ dưới 1 tuổi là 53,3 % ; 2 đến 3 tuổi là 35,9 % và 4 đến 5 tuổi là 28,3 %. Tần suất mắc NKHHC cao nhất từ 4 - 6 lần/năm chiếm 47,5 %, từ 3 lần trở xuống/năm chiếm 36,4 %, trên 6 lần/năm chiếm 16,1 % [68].

Theo Niên giám thống kê Y tế năm 2007 cho thấy, viêm phổi đứng đầu trong 10 bệnh mắc cao nhất trong toàn quốc [29].

Năm 2007, Bệnh viện Lao và Bệnh phổi trung ương, Dự án NKHHC trẻ em đã tổ chức Hội thảo “Triển khai kế hoạch hoạt động dự án NKHHC trẻ em các tỉnh trọng điểm năm 2007 và giai đoạn 2007 – 2010” cho thấy tình hình mắc NKHHC ở trẻ của các tỉnh miền núi là cao nhất (62,8 %), sau đó đến các tỉnh miền Trung (42,9 %), Đồng bằng tỷ lệ mắc bệnh ít hơn (34,8 %). Còn đối với tình hình tử vong ở trẻ do NKHHC thì ở miền núi (0,28 0/00) cao hơn so với

đồng bằng (0,06 0/00) và miền Trung (0 0/00) [8].

Theo báo cáo tại Hà Giang (2007): Tỷ lệ trẻ mắc NKHHC ở đây còn cao, chiếm 70,13 % [64], ở Lai Châu, tỷ lệ trẻ mắc NKHHC được điều trị còn thấp, mới chỉ đạt 58,8 % [65], Điện Biên (2007) chỉ tiêu về phòng chống NKHHC trẻ em đạt thấp hơn so với kế hoạch, chỉ đạt được 55,3 % [63]. Theo báo cáo của trung tâm phòng chống bệnh xã hội, tỉnh Bắc Kạn năm 2007 cho biết, chương trình phòng chống NKHHC (ARI) mới chuyển về trung tâm phòng chống bệnh xã hội, trước đó chương trình ARI thuộc Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh sau một thời gian dài vì không có kinh phí nên mạng lưới không hoạt động, hệ thống thống kê báo cáo không được duy trì, chỉ có khoảng 20 % NVYTTB biết về dấu hiệu, cách phòng và xử trí đối với bệnh NKHHC [73]. Cũng năm 2007 Sở y tế


tỉnh Cao Bằng và Yên Bái báo cáo tình hình hoạt động của một số chương trình như: Tiêm chủng mở rộng, phòng chống HIV/AIDS, phòng chống Lao, phòng chống phong, bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng, phòng chống sốt rét, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, phòng chống sốt xuất huyết, nhưng không đề cập đến tình hình mắc bệnh NKHHC của trẻ và cho rằng, do không có kinh phí hoạt động [62], [66]. Theo thông tin của Trung tâm y tế dự phòng tỉnh Cao Bằng cho thấy, đầu tháng 5 đến tháng 6 năm 2007 đã xảy ra dịch viêm đường hô hấp cấp ở trẻ tại xã Vị Quang, huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng với tổng số 185 trẻ mắc trong đó có 111 trẻ dưới 5 tuổi và tử vong 5 trẻ [74]. Báo cáo của tỉnh Phú Thọ về tình hình mắc NKHHC của trẻ dưới 5 tuổi năm 2006 cho thấy: Trẻ tử vong do viêm phổi chiếm 1/4 trong số trẻ tử vong [6]. Tại huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, bệnh NKHHC ở trẻ em dưới 5 tuổi vẫn là bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất so với tất cả các bệnh mắc ở trẻ em, với tần số mắc trung bình/năm/trẻ được phát hiện khám và điều trị ở tuyến cơ sở khoảng 2,3 đến 2,7 lần và bệnh này cũng là nguyên nhân gây tử vong cao nhất ở trẻ em, chủ yếu là trẻ dưới 1 tuổi [1].

Tóm lại: Qua một số nghiên cứu ở trên Thế giới và Việt Nam cho chúng ta thấy, tình hình mắc và tử vong do NKHHC ở trẻ dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển còn cao. Tuy nhiên còn ít nghiên cứu đề cập đến tình hình mắc bệnh và tử vong do NKHHC ở trẻ em dân tộc thiểu số, khu vực miền núi.Vì thế đây là vấn đề cần quan tâm nghiên cứu và đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm giảm tình trạng nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ em.

1.2. Căn nguyên và các yếu tố nguy cơ của bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp

1.2.1. Trên Thế giới

1.2.1.1. Căn nguyên gây bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp

Virus là nguyên nhân phổ biến nhất gây nhiễm khuẩn hô hấp dưới ở trẻ em và là nguyên nhân hàng đầu của trẻ vào viện và tử vong [85]. Virus là nguyên nhân gây nhiễm khuẩn hô hấp phải nhập viện điều trị chiếm tới 47,2 % [121]. Các loại virus thường gặp là: Virus hợp bào hô hấp (RSV), virus cúm, á cúm và Adenovirus trong đó virus RSV là tác nhân gây bệnh quan trọng nhất đối với nhiễm khuẩn hô hấp dưới [95], [88], [139], [140], [146]. Ở các nước đang phát triển, vi khuẩn đóng một vai trò quan trọng trong việc gây mắc NKHHC, các vi khuẩn chủ yếu là phế cầu và H. influenzae [34], [139].

Kenneth Mcintosh MD (2002) nghiên cứu tại cộng đồng về bệnh viêm phổi mắc phải ở trẻ em, cho rằng vai trò của các vi khuẩn được coi như là nguyên nhân gây viêm phổi nặng ở các nước đang phát triển. Những vi khuẩn


được coi là nguyên nhân chính gây viêm phổi nặng ở trẻ em, bao gồm Streptococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus, Haemophylus influenzae [109], Nizami S. Q. (2006) ở Parkistan, Baqui A. H. và cộng sự ở Bangladesh (2007) và một số nghiên cứu khác trên thế giới cũng cho kết quả tương tự [82], [97], [107], [120], [122].

Virus nguy hiểm gần đây đối với trẻ nhỏ đó là H5N1, gây nên hội chứng hô hấp cấp tính (SARS) nặng là một bệnh đường hô hấp gây tử vong cao, do một loại virus thuộc chủng Coronavirus gây nên, sau thời kỳ ủ bệnh từ 4 đến 5 ngày (dao động từ 2- 14 ngày). Bệnh có biểu hiện sốt cao và có các hội chứng giống cúm không đặc hiệu như là đau đầu, mệt mỏi và đau mình mẩy. Một số bệnh nhân có các triệu chứng đường hô hấp nhẹ như ho khan, tiêu chảy, rét run, khó thở, có thể có viêm phổi không điển hình và tiến triển nặng tới suy hô hấp và tử vong [138].

1.2.1.2. Yếu tố nguy cơ đến nhiễm khuẩn hô hấp cấp

Có nhiều yếu tố nguy cơ gây NKHHC ở trẻ em đó là: Môi trường tự nhiên - xã hội, hệ thống y tế, kiến thức - thái độ - thực hành (KAP) của bà mẹ và yếu tố sinh học.

* Môi trường tự nhiên - xã hội và hệ thống y tế.

Một số nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ tới nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp của trẻ em ở các nước đang phát triển đã đưa ra một số yếu tố như sau:

- Yếu tố kinh tế xã hội:

+ Thu nhập: Yếu tố liên quan tới nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp (Acute Lower Respiratory Infection- ALRI) là rất khác nhau giữa các nước. Mặc dù trẻ em dưới 5 tuổi ở trên toàn thế giới đều có số đợt NKHHC (Acute Respiratory Infection - ARI) xấp xỉ nhau (khoảng 5 đợt cho một trẻ trong một năm). Số trẻ mới mắc viêm phổi hàng năm ở các nước công nghiệp phát triển dao động từ 3

% đến 4 % và ở các nước đang phát triển là 10 % đến 20 %. Sự khác biệt cũng thấy rõ ngay trong một thành phố hoặc trong một nước. Ở khu vực phía Nam Brazil, tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp đối với trẻ ở các gia đình có thu nhập dưới 50 USD một tháng là 12/1000 trẻ; 16 % trong số những đứa trẻ này vào viện bị nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp xảy ra ở trẻ dưới 20 tháng tuổi. Trong số trên 600 trẻ, thu nhập gia đình trên 300 USD một tháng, không có một trường hợp tử vong nào do viêm phổi và chỉ 2 % vào viện vì bị nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp. Một vài nghiên cứu khác cũng ở Brazil, Ba Lan, cho thấy trẻ em sống trong gia đình có điều kiện kinh tế thấp thì có nguy cơ nhiễm khuẩn hô hấp dưới nặng hơn [92], [117], [123].


+ Trình độ học vấn của bố, mẹ: Trình độ học vấn thấp của bố, mẹ có liên quan tới sự gia tăng vào viện và tử vong do nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp của trẻ [92], [118].

- Yếu tố môi trường: Yếu tố nguy cơ môi trường được nghiên cứu nhiều nhất bao gồm phơi nhiễm với khói bụi, nhà ở chật chội đông đúc và nhiệt độ thấp.

+ Ô nhiễm do các chất đốt trong gia đình: Người ta dự tính rằng ở các nước đang phát triển, 30 % các hộ gia đình ở thành phố và 90 % các hộ gia đình ở vùng nông thôn sử dụng củi gỗ, rơm rạ và chất thải động vật như là nguồn đốt chính cho đun nấu, sưởi ấm và nồng độ các chất ô nhiễm trong nhà cao gấp 20 lần so với các nước công nghiệp phát triển. Trẻ em người Mỹ gốc bản địa dưới 2 tuổi phơi nhiễm với lò sưởi đốt bằng củi, có nguy cơ viêm phổi cao gấp 5 lần so với trẻ cùng tuổi và cùng giới ở những gia đình không dùng lò sưởi này [92]. Nghiên cứu của Jonathan Grigg (2007) về việc đốt các nhiên liệu để nấu ăn và sưởi ấm trong nhà ở các nước đang phát triển cho thấy, có mối liên quan giữa ô nhiễm không khí trong nhà ở và gia tăng mắc bệnh đối với nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp ở trẻ [106]. Nghiên cứu của Jame Kilabuko H. and Satoshi Nakai (2007) và nghiên cứu của Khin Myat Tun ở Myanmar (2005), cho thấy các nhiên liệu đốt bằng khí sinh học (gỗ, rác thải nông nghiệp) là nguồn năng lượng chính của các nước đang phát triển và ảnh hưởng đến NKHHC ở trẻ nhỏ [110], [116].

+ Khói thuốc lá: Mối liên quan giữa khói thuốc và bệnh đường hô hấp ở trẻ được khẳng định trong nhiều nghiên cứu. Con của người hút thuốc lá có tỷ lệ mắc bệnh hô hấp cao gấp 1,5 đến 2 lần so với con của những người không hút thuốc lá. Theo dõi trên 4500 trẻ em Brazil trong 2 năm đầu sau khi sinh chỉ ra rằng: có sự gia tăng 50 % vào viện do nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp ở trẻ mà cả bố và mẹ đều hút thuốc so với trẻ mà bố, mẹ không hút thuốc. Một nghiên cứu khác ở vùng đông bắc Brazil, cho thấy trong số những trẻ vào viện vì viêm phổi thì trẻ sống trong gia đình có người nghiện thuốc lá chiếm 48 % [92], [105], [117], [119].

+ Chật trội, đông đúc: Chật trội, đông đúc thường khá phổ biến ở các nước đang phát triển, đã được khẳng định có liên quan tới các bệnh đường hô hấp. Sự liên quan chặt chẽ giữa mắc nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp với chật chội, đông đúc, số người và số con dưới 5 tuổi trong gia đình. Nghiên cứu ở Brazil và một số nghiên cứu khác cho thấy: gia đình có từ 3 con dưới 5 tuổi trở lên có nguy cơ tử vong do viêm phổi cao gấp từ 2 đến 5 lần so với gia đình có ít con. [91], [92], [118], [145].


+ Phơi nhiễm với lạnh và ẩm ướt: Nghiên cứu của Simoni M. năm 2005 (Italia) trong 20.016 trẻ cho thấy, nhà ẩm ướt có liên quan đến bệnh hô hấp của trẻ [132].

- Yếu tố dinh dưỡng: Các yếu tố dinh dưỡng có thể ảnh hưởng tới nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp bao gồm cân nặng lúc sinh, tình trạng dinh dưỡng, sữa mẹ, nồng độ vitamin A và các vi chất dinh dưỡng khác [92], [104], [118]. Nghiên cứu của Wayse (2004), ở Ấn Độ cho thấy thiếu hụt vitamin D và nuôi con không hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 4 tháng đầu là yếu tố nguy cơ đối với ALRI nặng ở trẻ [142].

+ Cân nặng sơ sinh thấp: Một nghiên cứu ở Anh đã chỉ ra rằng: trẻ em có cân nặng sơ sinh thấp có nguy cơ mắc NKHHC cao gấp 2 lần trong những năm đầu sau khi sinh. Kết quả các nghiên cứu đều cho thấy sự gia tăng nguy cơ tương đối dao động từ 1,5 lần đến 8 lần đối với trẻ có cân nặng sơ sinh thấp. Trẻ đẻ thiếu tháng và trẻ có cân nặng thấp trong thời kỳ mang thai ở Brazil cũng có nguy cơ vào viện tương tự vì viêm phổi trong 1, 2 năm đầu sau khi sinh. Những kết quả trên đã đưa tới kết luận là trẻ em có cân nặng sơ sinh thấp sẽ có nguy cơ mắc bệnh viêm phổi nặng cao hơn [92], [130], [118].

+ Thiếu sữa mẹ: Một nghiên cứu đã cung cấp thông tin về tử vong đặc hiệu do nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp liên quan tới trẻ nuôi bằng sữa mẹ, những trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ thì có nguy cơ mắc bệnh cao hơn 3,6 lần so với trẻ được nuôi bằng sữa mẹ. Nghiên cứu về sự liên quan giữa sữa mẹ và vào viện do viêm phổi ở Trung Quốc, Brazil, Canada và Argentina đều chỉ ra rằng trẻ em không được nuôi bằng sữa mẹ có nguy cơ vào viện cao gấp từ 1,5 đến 4 lần [92], [130].

Một số tác giả trên thế giới đã tiến hành nghiên cứu tổng hợp các yếu tố nguy cơ trên cùng một nhóm cộng đồng: Nghiên cứu của Baker R. J. (2006) cho thấy, phơi nhiễm với nhiên liệu đốt cháy trong nhà ở do sưởi ấm, nấu ăn, hút thuốc lá trong gia đình thì tỷ lệ trẻ mắc nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp thường gặp với tần số nhiều hơn so với những trẻ sống trong nhà không có các yếu tố trên [80]. Nghiên cứu của Broor S. và cộng sự năm 2001 (ở Ấn Độ), phân tích hồi quy logistic thấy rằng trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ, nhiễm khuẩn hô hấp trên ở mẹ, nhiễm khuẩn hô hấp ở con cái trong nhà, tiêm chủng không đầy đủ theo tuổi và tiền sử nhiễm khuẩn hô hấp dưới trong gia đình là yếu tố đóng góp có ý nghĩa của nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp ở trẻ dưới 5 tuổi. Giới tính của trẻ, tuổi của bố, mẹ, trình độ học vấn của bố, mẹ, số con trong gia đình, loại nhà ở

Xem tất cả 140 trang.

Ngày đăng: 05/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí