Một số biện pháp đẩy mạnh công tác hoạt động tín dụng tại Công ty Tài chính Bưu điện - Nguyễn Trường Giang - 2


­ Thi hn hot động: Thời hạn hoạt động của công ty tài chính tối đa là 50 năm. Trường hợp cần gia hạn thời hạn hoạt động, phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận, nhưng mỗi lần gia hạn không quá 50 năm.

Trong khi đó, thời hạn hoạt động của các ngân hàng không bị khống chế.

pháp luật

­ Cơ hi cnh tranh và li ích mang li: Xét ở khía cạnh nào đó, các công ty tài chính sẽ chịu áp lực cạnh tranh ở mức độ thấp hơn so với ngân hàng. Theo cam kết WTO, chỉ có ngân hàng thương mại nước ngoài và công ty tài chính nước ngoài mới được thành lập công ty tài chính liên doanh và công ty tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được thành lập công ty tài chính liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài nhưng phải có tổng tài sản trên 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn.

Trong khi ngân hàng hoạt động rộng và huy động vốn chủ

yếu từ

công

chúng thì công ty tài chính huy động vốn chủ yếu từ nội bộ tập đoàn và nhóm công ty. Vì thế, rủi ro xảy ra đối với các công ty tài chính chủ yếu là do nội bộ tập đoàn hay nhóm công ty gánh chịu, rất ít ảnh hưởng tới cộng đồng. Khi các quan hệ kinh tế trong tập đoàn là minh bạch và tuân thủ đúng pháp luật thì khả năng xảy ra rủi ro là không lớn.

Một trong những hạn chế của các công ty tài chính so với các tổ chức ngân hàng là không được làm dịch vụ thanh toán và nhận tiền gửi dưới 1 năm. Tuy vậy, các công ty tài chính hiện nay đã khắc phục bằng việc phát triển thêm nhiều sản phẩm dịch vụ mới như dịch vụ nhận ủy thác vốn, nhận ủy thác đầu tư bao thanh toán, thu xếp vốn,...v.v. cho cả ngắn hạn, trung và dài hạn. Những dịch vụ này đã giúp công ty tài chính thực hiện được các dịch vụ khác tương tự như một ngân hàng thương mại.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 82 trang tài liệu này.

Như vậy, có thể thấy lợi ích của công ty tài chính mang lại cho các doanh nghiệp là rất lớn. Không phải ngẫu nhiên mà trên thế giới, các tập đoàn lớn thường có ít nhất một công ty tài chính. Công ty tài chính là công cụ để tập đoàn điều tiết vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả và thuận lợi nhất. Trong phạm vi nội bộ tập đoàn hoặc nhóm công ty có quan hệ lợi ích gắn bó, công ty tài chính có thể dễ dàng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi từ các công ty thành viên để tập trung vốn đầu tư. Với tính nội bộ cao trong hoạt


Một số biện pháp đẩy mạnh công tác hoạt động tín dụng tại Công ty Tài chính Bưu điện - Nguyễn Trường Giang - 2

động nghiệp vụ công ty tài chính có thể kiểm soát rủi ro và tập trung vốn lớn cho các dự án quan trọng trong nội bộ tập đoàn.

1.1.3. Các loại hình công ty Tài chính

Có nhiều tiêu chí để phân loại Công ty Tài chính:

Căn cvào quan hshu: Nghị định 79/2002­NĐ­CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty Tài chính tại Việt nam và Thông tư số 06/2002­ TT­NHNN ngày 23/12/2003 của Ngân hàng Nhà nước Việt nam, Công ty Tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt nam dưới các hình thức :

Công ty Tài chính nhà nước: Là công ty tài chính do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh

Công ty Tài chính cphn: Là công ty tài chính do các tổ chức và cá nhân cùng góp vốn theo quy định của pháp luật, được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần.

 Công ty Tài chính trực thuộc các tổ chức tín dụng: Là công ty tài chính do một tổ chức tín dụng thành lập bằng vốn tự có và làm chủ sở hữu theo quy định của pháp luật, hạch toán độc lập và có tư cách pháp nhân.

Công ty Tài chính liên doanh: Là Công ty tài chính được thành lập bằng vốn góp giữa bên Việt nam gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, doanh nghiệp Việt Nam và bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.

Công ty Tài chinh 100% vn nước ngoài: Là công ty tài chính được thành lập bằng vốn của một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài theo quy định của pháp luật.

 Căn cứ vào mục đích hoạt động kinh doanh:

Công ty tài chính tiêu dung: các công ty này cung ứng phần lớn nguồn vốn cho các gia đình và cá nhân phục vụ mục đích mua sắm tiêu dùng. Hầu hết các khoản cho vay đều có giá trị nhỏ và được trả góp định kỳ, dài hạn

Công ty Tài chính bán hàng: Loại công ty tài chính bán hàng này gần gũi với công ty tài chính tiêu dùng nhưng điểm khác là họ cung cấp tín dụng gián tiếp cho người tiêu dùng để mua sắm hàng hoá do công ty mẹ hoặc một nhà sản xuất nào đó bán ra. Người tiêu dùng sẽ thoả thuận với nơi bán hàng một hợp đồng mua hàng trả góp, trong đó khách hàng phải trả tiền hàng với lãi suất theo kỳ. Các công


ty tài chính bán hàng mua lại các hợp đồng đó và họ thường thống nhất với nơi bán hàng về mẫu các hợp đồng và thời hạn trả góp mà họ chấp nhận được. Khi các công ty tài chính mua các hợp đồng bán hàng trả góp tức là họ đã mua lại các khoản nợ của ngư ơiừ mua hàng do vậy người ta goi là hình thức tài trợ gián tiếp. Quan hệ giữa công ty tài chính bán hàng và người bán háng bàng rất khăng khít với nhau. Người bán hàng bán toàn bộ các hợp đồng trả góp cho các công ty tài chính và họ phải chịu sự kiểm tra hàng ngày của công ty tài chính. Khi các hợp đồng trả góp đến hạn, người tiêu dùng trả tiền cho người bán hàng và người bán hàng phải hoàn đủ số tiền đó cho công ty tài chính bán hàng. Trong trường hợp người mua hàng không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ thì công ty tài chính có quyền xiết nợ, thậm chí thu hồi số hàng hóa trên để trả lại nơi sản xuất. Đây là hình thức tài trợ được áp dụng phổ biết ở những công ty tài chính phụ thuộc

Công ty Tài chính thương mi: Đây là công ty tài chính chuyên cung cấp tín dụng bằng cách mua lại hoặc chiết khấu các khoản phải thu (factoring) của doanh nghiệp. Ngoài ra, họ còn cung cấp các hợp đồng cho thuê tài chính và cung ứng một số loại tín dụng khác. Các khoản phải thu của doanh nghiệp thường là vốn lưu động. Doanh nghiệp bán hàng chưa thu được tiền ngay nhưgn lại cần tiền để mua nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất liên tục để trả lương và thanh toán các

chi phí khác. Công ty tài chính gọi đây là hình thức tài trợ các khoản phải thu.

Ngoài hình thức này, cũng có trường hợp công ty tài chính mua đứt các khoản phải thu của doanh nghiệp còn gọi là mua nợ. Công ty tài chính đã chấp nhận rủi ro cao hơn nhưng hoàn toàn có quyền không chế các con nợ của doanh nghiệp.

Trong thời gian gần đây, sự phân biệt ba lại hình công ty tài chính như trên đã mờ nhạt dần. Tuy vẫn còn có những công ty tài chính chuyên môn hoá theo phương thức này hoặc theo phương thức khác trong hoạt động tín dụng

nhưng tất cả

đều nhằm vào cả

thị

trường tín dụng thương mại và thị

trường tín dụng tiêu dùng.

 Căn cứ vào sự độc lập trong hoạt động:

 Các công ty tài chính độc lập: Thực hiện các hoạt động kinh doanh như hoạt động tín dụng gồm cho vay và bảo lãnh, các hoạt động bao thanh toán, kinh doanh tiền tệ, tư vấn tài chính…

 Các công ty tài chính thuộc các tập đoàn kinh tế: Hoạt động của các Công ty


Tài chính này cũng giống như các Công ty Tài chính độc lập, nhưng các công ty này tập trung vào những hoạt động sau: huy động vốn đáp ứng nhu cầu của tập đoàn và các công ty thành viên, điều hoà vốn giữa các công ty thành viên trong tập đoàn, là công cụ tài chính của tập đoàn thực hiện các chức năng kinh doanh vốn, tiền tệ của tập đoàn. Bên cạnh đó, các Công ty Tài chính này còn cung cấp các dịch vụ tài chính cho các khách hàng bên ngoài như cho vay mua hàng hoá do tập đoàn cung ứng.

1.1.4 Vai trò của Công ty Tài chính

Các công ty tài chính cũng như các NHTM luôn là những trung gian tài chính đem lại lợi ích cho người cho vay, người đi vay cũng như toàn xã hội. Mặt khác công ty cài chính còn là một tổ chức mang tính chuyên môn hoá cao trong một số nghiệp vụ được quy định nên nó có vai trò sau:

Thnht, công ty tài chính đóng vai trò khá quan trọng trong việc tạo thêm một kênh tài trợ mới hữu hiệu cho các tổ chức, cá nhân đồng thời cũng góp phần làm phong phú thêm các dịch vụ tài chính, Ngân hàng.

Thhai, Công ty tài chính tạo các cơ hội đầu tư sinh lời cho các cá nhân: đối với khách hàng cá nhân thường có món tiền nhỏ không dễ kiếm lời do thiếu thông tin cần thiết trên thị trường tài chính. Hơn nữa đầu tư món tiền ra thị trường đôi khi chi phí giao dịch quá lớn, thủ tục đối khi lại rườm rà khiến cá nhân gặp khó khăn khi đầu tư. Các công ty tài chính sẽ giúp các khách hàng của mình tiết kiệm được các chi phí thông tin và giao dịch khi cung ứng hoặc sử dụng các nguồn vốn bởi họ luôn có chiến lược hợp lý, linh hoạt trong quan hệ với khách hàng,

trong việc triển khai các nghiệp vụ được phép làm... Trong hoạt động của các

công ty tài chính có một lợi thế là họ không gặp phải một hạn chế nào từ phía ngân hàng nhà nước như ràng buộc gắt gao về dự trữ bắt buộc, thanh khoản của ngân hàng nhà nước như các ngân hàng thương mại.

Thba, thông qua các công ty tài chính các nguồn vốn nhỏ hẹp trong dân cư có thể được tập trung lại phục vụ cho nhu cầu về vốn của đất nước đặc biệt là các hoạt động đầu tư dài hạn. Hoạt động của công ty tài chính rất phù hợp với những hoạt động giao dịch của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do vậy phủ hợp với các nước đang phát triển.

Thư tư, công ty tài chính thúc đẩy đầu tư cạnh tranh và tiến bộ tài chính do


sự tham gia của loại hình này làm tăng tính cạnh tranh, giảm giá vốn. Trong những năm gần đây, nhiều loại hình công ty tài chính ra đời làm giá vốn đầu tư giảm, chất lượng phục vụ tăng, tạo thêm khả năng lựa chọn cho khách hàng.


1.2. Hoạt động tín dụng của Công ty Tài chính


1.2.1. Khái niệm và đặc thù của hoạt động tín dụng trong công ty tài chính


a. Khái niệm hoạt động tín dụng

Trong nền kinh tế hàng hoá luôn luôn tồn tại những chủ thể kinh tế với những chu kỳ kinh doanh khác nhau. Do đó, tại mỗi thời điểm luôn có những chủ

thể có vốn nhàn rỗi (thừa vốn tạm thời), đồng thời có những chủ thể khác lại

thiếu vốn để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Sự gặp gỡ giữa hai chủ thể kinh tế nói trên dựa trên những điều thoả thuận về những điều kiện có lợi cho cả hai bên và dựa vào sự tín nhiệm lẫn nhau mà hình thành quan hệ tín dụng.

Cùng với thời gian, danh từ tín dụng đã được sử dụng để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức tạp như: bán chịu hàng hoá (tín dụng thương mại), cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính...Trong mỗi hành vi tín dụng trên đều có ít nhất hai bên cam kết với nhau:

­ Một bên trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc.

­ Bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tài hóa đó trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định nào đó.

Tuy vậy, cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa về tín dụng được đưa ra. Nhà kinh tế Pháp, ông Louis Baundin, đã định nghĩa về tín dụng như là “Mt strao đổi tài hoá hin ti ly mt tài hoá tương lai”.

Luật Ngân hàng các nước định nghĩa: “Cu thành mt nghip vtín dng là bt cứ động tác nào mà qua đó mt người đưa hoc ha đưa vn cho mt người khác dùng hoc cam kết bng chký cho người này để đảm bo, bo chng hay bo lãnh mà có thu tin”. Dù định nghĩa không giống nhau, tín dụng ở đây có sự có mặt của yếu tố thời gian. Điều này cũng đồng nghĩa rằng, quan hệ tín dụng có chứa đựng sự bất trắc, rủi ro có thể xảy ra. Trong tương lai, bên có nghĩa

vụ phải hoàn trả

có thể

không có khả

năng hoàn trả

hoặc hoàn trả

không đủ,

không đúng thời hạn. Do đó, để hạn chế những thiệt hại cho bên cấp tín dụng, hai


bên có thể thoả thuận những điều kiện đảm bảo khác nhau gọi là tín dụng có đảm bảo.

Quan hệ tín dụng ra đời thực hiện chức năng phân phối, huy động và tập trung vốn để cho vay, thực hiện giám đốc và kiểm soát bằng đồng tiền đối với hoạt động kinh tế quốc dân. Làm cho quá trình sản xuất kinh doanh liên tục và ổn định, phát triển kinh tế ­ xã hội. Quan hệ tín dụng trở thành một trong những chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước và tạo cửa ngõ phát triển cho hoạt động tài chính.


b. Tính đặc thù của hoạt động tín dụng tại Công ty tài chính

Hoạt động tín dụng của công ty tài chính mang đầy đủ những đặc điểm của hoạt động tín dụng nói chung. Công ty tài chính là một tổ chức tài chính phi ngân hàng nên cũng như các ngân hàng nó cũng có chức năng làm trung gian tài chính: huy động các món tiền gửi có kỳ hạn, đặc biệt là tiền tiết kiệm để đưa vào lĩnh vực đầu tư. Họ cũng cung cấp một số loại dịch vụ ngân hàng như nhận đại lý, môi giới, uỷ thác... và mỗi loại hình còn có các chức năng đặc biệt của nó tuỳ theo

mục tiêu hoạt động. Vì không được nhận tiền gửi không kỳ hạn và thực hiện

thanh toán cho khách hàng nên khác với các ngân hàng, công ty tài chính không tham gia vào quá trình tạo tiền gửi và không bị chi phối, điều hành bởi ngân hàng trung ương nên nó có thể cung ứng các khoản tín dụng hấp dẫn hơn cho khách hàng.

Nếu như các NHTM được hoạt động trên cả ba khâu:

­ Nhận tiền gửi

­ Cho vay

­ Thanh toán

Hoạt động của các công ty tài chính bị bó hẹp và giới hạn ở một số nghiệp vụ nhất định mang tính chuyên biệt. Đặc biệt, các công ty tài chính không được nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc ngắn hạn, không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán. Công ty tài chính là trung gian tài chính hình thành nguồn vốn bằng cách huy động tiền gửi có kỳ hạn hoặc phát hành các chứng khoán nợ hay vay của các ngân hàng. Nguồn vốn huy động sử dụng để cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với đối tượng sản xuất hoặc tiêu dùng, thực hiện nghiệp vụ Factoring hoặc thuê mua.

Quá trình trung gian tài chính của các công ty tài chính có thể được mô tả rằng họ cho vay những món tiền nhưng lại thường cho vay nhưng món tiền nhỏ ­


một quá trình hoàn toàn khác với quá trình trung gian của các ngân hàng thương mại. Chính vì thế quá trình cho vay của các công ty tài chính đặc biệt thích hợp với các nhu cầu của các doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Ngoài ra, còn có sự khác biệt giữa công ty tài chính với một số trung gian tài

chính khác hư

các tổ

chức tiết kiệm theo hợp đồng (công ty Bảo hiểm và quỹ

tương trợ) ở đây các trung gian tài chính này thu nhận vốn một cách định kỳ trên cơ sở hợp đồng. Do đó họ có thể dự tính một cách chính các là họ sẽ phải thanh toán hết bao nhiêu trong các năm tới, họ không phải lo lắng nhiều như các tổ chức tiền gửi về việc thiếu hụt vốn và họ có xu hướng muốn đầu tư vốn của họ trước hết và các chứng khoán dài hạn như các trái khoán công ty, các cổ phần và các khoản cho vay thế chấp ­ còn các công ty tài chính nhận vốn bằng cách bán các thương phiếu và phát hành các cổ phiếu và các trái khoán.

Mặt khác, nếu như các ngân hàng thương mại là các tổ chức tín được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và có mạng lưới chi nhánh trải rộng trên toàn đất nước thì các công ty tài chính hầu như không được mở chi nhánh trừ một số công ty tài chính được ngân hàng nhà nước chấp thuận bằng văn bản.

Ở các nước có nền kinh tế phát triển, do yêu cầu mở rộng phạm vi hoạt động nên các công ty tài chính đều muốn mở rộng và đa dạng hoá các nghiệp vụ

của mình để

phục vụ

khách hàng của mình được nhiều hơn và cũng thu được

nhiều hơn lợi nhuận. Do đó dẫn đến sự phân chia ranh giới về hoạt động tín dụng giữa các ngân hàng và công ty tài chính đang ngày càng bị xoá nhoà và không còn rõ rệt nữa. Giữa các trung gian tài chính đang có xu hướng pha trộn các hoạt động nghiệp vụ.

Tóm lại, sự khác biệt cơ bản giữa công ty tài chính và ngân hàng thương mại ở chỗ các ngân hàng có thể nhận tiền giử thươòng xuyên trong khi các công ty tài chính thì sử dụng vốnt ự có để cho vay đầu tư, không nhận tiền gửi của dân chúng và các tổ chức với thời hạn ngắn và dứói hình thức mở tài khoản, không

thực hiện dịch vụ thanh toán và không sử toán.

1.2.2. Phân loại tín dụng

dụng vốn để

làm phương tiện thanh

Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản vay theo từng nhóm dựa trên những tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để


thiêt lập các qui trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Phân loại cho vay dựa vào các căn cứ sau đây:

a. Thời hạn tín dụng

Căn cứ vào tiêu thưc này người ta chia tín dụng thành 3 loại

­ Tín dng ngn hn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đây là loại hình ít rủi ro cho ngân hàng vì trong một thời gian ngắn ít có những biến động xảy ra và ngân hàng luôn dự tính được những biễn động đó. Nó bao gồm tín dụng chiết khấu, tín dụng thấu chi, tín dụng ứng trước, tín dụng bổ sung vốn lưu động.

­ Tín dng trung hn: có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm là loại tín dụng chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Ngoài ra, tín dụng trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập. Nó bao gồm các hình thức chủ yếu sau: tín dụng thực hiện theo dự án, tín dụng hợp vốn, tín dụng cho thuê tài chính.

­ Tín dng dài hn: có thời hạn trên 5 năm được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ

tầng, cải tiến và mở rộng qui mô sản xuất với qui mô lớn. Loại tín dụng này

thường có mức độ rủi ro cao, do khó lường trước những biến động xảy ra.


b. Đối tượng tín dụng

Căn cứ vào hình thức này, người ta chia tín dụng thành 2 loại đó là:

­ Tín dng vn lưu động:là hình thức cấp tín dụng có thời hạn ngắn thường dưới 1 năm. Được sử dụng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Đây là loại tín dụng có mức độ rủi ro thấp do nó phục vụ cho chu kì sản xuất kinh doanh nên Ngân hàng có thể theo dõi thường xuyên và dự báo biến động xảy ra. Nó bao gồm: cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kì phiếu.

­ Tín dng vn cố định: là hình thức đầu tư vốn của ngân hàng mà chi phí đầu tư gắn liền với TSCĐ, có nghĩa là đầu tư để mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi

Xem tất cả 82 trang.

Ngày đăng: 06/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí