- Hà Nội - Rừng Quốc gia Cúc Phương
- Hà Nội - Tam Đảo
- Hà Nội - Kim Bôi- Hoà Bình
- Hà Nội - Hồ Núi Cốc
- Hà Nội - Hồ Ba Bể
- Hà Nội - Hoa Lư - Tam Cốc - Phát Diệm
- Hà Nội - Đồ Sơn
- Hà Nội - Cát Bà
- Hà Nội - Hạ Long
Có thể bạn quan tâm!
- Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay - 6
- Hoạt Động Của Các Làng Nghề Truyền Thống
- Sự Phát Triển Du Lịch Gắn Với Phát Triển Văn Hoá Ở Thủ Đô
- Hình Thành Một Số Vùng Trọng Điểm Về Du Lịch Ở Thủ Đô Gắn Với Các Di Sản Văn Hoá
- Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay - 11
- Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay - 12
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
- Hà Nội - Sầm Sơn
- Hà Nội - Huế
- Hà Nội - Nha trang
- Hà Nội - Nha Trang - Đà Lạt - T.P Hồ Chí Minh
- Hà Nội - Nha Trang - Đà Lạt - Vũng Tàu - T.P Hồ Chí Minh - Tây Ninh - Củ Chi
- Xuyên Việt
Hà Nội còn là điểm du lịch hàng đầu của châu á. Thành công này được gặt hái từ kết quả tất yếu của quá trình quảng bá từ những năm trước. Chương trìmh xúc tiến quảng bá du lịch đã có tiếng vang lớn trong năm là phối hợp với hãng Hàng không Việt Nam mở thêm trung tâm du lịch tại sân bay quốc tế Nội Bài. Đây là nơi đầu tiên đón chào mừng du khách năm châu đến Hà Nội, giới thiệu quảng bá về hình ảnh đất nước con người Việt Nam đồng thời cung cấp thông tin bổ ích cho du khách về tua, tuyến, điểm, các đơn vị lữ hành và khách sạn trên địa bàn Hà Nội.
Hà Nội đã mở rộng hợp tác với 25 thủ đô và thành phố lớn của các nước qua việc ký kết nhiều văn bản ghi nhớ và thoả thuận trong lĩnh vực du lịch như với: Pháp, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc. Năm 2004 mở rộng xúc tiến du lịch đến thị trường Nam Phi, Nam Mỹ. Hiện đã có 167 thị trường có khách du lịch đến Hà Nội. Việt Nam được coi là điểm đến hấp dẫn và thân thiện, Hà Nội được công nhận là “thành phố hoà bình” và được tạp chí Mỹ Travel Leisurue (3/2003) bình chọn là thành phố du lịch tốt thứ hai
Châu á (sau Băng Cốc), đứng thứ 13 thế giới và trở thành thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế lớn như Liên minh các thành phố lịch sử (NHC), Hiệp hội quốc tế thị trường các thành phố có tổ chức sử dụng tiếng Pháp (AIMF), mạng lưới chính quyền địa phương (CITYET) và Hiệp hội thế giới các đô thị lớn (Metropolis).
Những hoạt động trên đã góp phần tạo ra một vị thế mới cho du lịch thủ đô, đóng góp thiết thực vào việc nâng cao hiểu biết và tình cảm của nhân dân cả nướcvà bè bạn quốc tế về du lịch Hà Nội, văn hoá và con người Hà Nội nói riêng, văn hoá và con người Việt Nam nói chung.
2.2.2.4. Quản lý nhà nước về du lịch và sự phát triển văn hoá
Du lịch là loại hình kinh tế đặc thù khác với các ngành kinh tế khác về sản phẩm cũng như phương thức tiêu dùng. Du lịch phát triển phụ thuộc vào đặc điểm tự nhiên, lịch sử, truyền thống văn hoá và điều kiện phát triển kinh tế xã hội. Phạm vi hoạt động du lịch không ngừng mở rộng, thường xuyên có sự thay đổi không ngừng về cơ cấu nguồn khách. Hoạt động du lịch tác động đến nhiều ngành đòi hỏi tính toán toàn diện trong chính sách và giải pháp cũng như sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng trong công tác quản lý. Từ đặc điểm của hoạt động du lịch gắn với phát triển văn hoá nhất thiết phải nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước về du lịch.
Vai trò quản lý của Nhà nước trong hoạt động du lịch được xác định rõ trong Luật Du lịch (2005):
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về du lịch
Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về du lịch; chủ trì, phối hợp với các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quản lý nhà nước về du lịch.
Bộ, và cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và theo sự phân công của Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương trong việc thực hiện quản lý nhà nước về du lịch.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình và theo sự phân cấp của Chính phủ có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về du lịch tại địa phương; cụ thể hoá chiến lược, quy hoạch, cơ chế, chính sách phát triển du lịch phù hợp với thực tế tại địa phương và có biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vệ sinh môi trường tại khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch [42, tr.17].
Mặc dù mới được thành lập nhưng Sở Du lịch Hà Nội đã tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội thực hiện được nhiều việc liên quan đến công tác quản lý các hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố. Bên cạnh đó Ban chỉ đạo về du lịch của Uỷ ban nhân dân thành phố cũng góp phần không nhỏ vào việc quản lý nhà nước về du lịch. Bước đầu đã thực hiện tốt việc chuyển nhà khách, nhà nghỉ công ích sang kinh doanh dịch vụ du lịch, quản lý và giám sát được các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ lưu trú và lữ hành.
Sự chuyển đổi cơ chế tổ chức quản lý kinh tế từ bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước cùng với việc thực hiện chính sách mở cửa trong kinh doanh du lịch, đã làm cho tổ chức du lịch trên địa bàn thành phố có nhiều thay đổi và đã đạt được nhiều thành tích quan trọng: Có sự tăng nhanh về lượng khách, đa dạng hoá về thị trường, mức nộp ngân sách ngày càng tăng và có cơ hội đầu tư vào cơ sở vật chất cho du lịch. Du lịch góp phần tạo doanh thu cho nhiều ngành khác, góp phần xoá đói giảm nghèo cho cộng đồng dân cư địa phương nơi có tài nguyên du lịch. Công tác quản lý nhà nước về du lịch được tăng cường một bước, hầu hết các hoạt động du lịch được tổ chức quản lý thống nhất, thông suốt. Tuy nhiên vẫn còn có những hạn chế trong quản lý nhà nước về du lịch là:
Sở Du lịch vẫn chưa phối hợp có hiệu quả với chính quyền địa phương và ngành văn hoá trong việc bảo vệ môi trường, cảnh quan, khai thác và tôn tạo các cơ sở văn hoá. Việc quản lý và khai thác các di sản văn hoá phục vụ du lịch chưa thống nhất, trong các cấp, các ngành nhiều khi phó mặc cho chính quyền địa phương quản lý hoặc các cơ quan quản lý không có đủ điều kiện đảm bảo. Tình trạng xuống cấp và huỷ hoại của các giá trị văn hoá vẫn ở mức báo động. Nhiều nơi việc tôn tạo các di tích văn hoá có tiềm năng du lịch được tiến hành một cách bị động thiếu nghiên cứu qui hoạch và
chuyên môn, thiếu tôn trọng giá trị lịch sử của di tích. Có nhiều nơi chỉ chú trọng khai thác phục vụ những lợi ích trước mắt mà không tính đến những hậu quả sau này do việc tổ chức du lịch bừa bãi gây ô nhiễm môi trường, phá hoại cảnh quan.
Nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực đầu tư vào du lịch có tăng nhưng chưa đồng bộ và thường tập trung vào các cơ sở lưu trú hiện có. Vì vậy việc đầu tư thường tự phát do đó không đủ sức thu hút khách địa phương.
Chưa có cơ chế hữu hiệu khai thác các tiềm năng du lịch ở thủ đô do đó sản phẩm du lịch vẫn còn nghèo nàn, thiếu các hoạt động vui chơi giải trí cho khách. Sự phối hợp giữa các ngành quản lý sản phẩm du lịch còn thiếu cơ chế phối hợp do đó làm giảm tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch.
Nhận thức xã hội với du lịch được nâng cao nhưng chưa đồng đều ở các cấp, các ngành, vẫn còn nhiều chính sách chưa thuận lợi cho du lịch như chính sách giá cho du lịch còn cao, nhiều nơi áp dụng chính sách hai giá, chưa có cơ chế cho vay ưu đãi đầu tư xây dựng các sản phẩm du lịch.
Chưa quản lý được một số hiện tượng không lành mạnh trong kinh doanh du lịch như tranh giành khách, ăn xin và các tệ nạn xã hội khác…
Tốc độ phát triển du lịch ngày càng nhanh và đa dạng nhưng bộ máy quản lý nhà nước về du lịch chưa tiến kịp xu thế phát triển.
Tất cả những vấn đề trên đặt ra yêu cầu quan trọng là phải tiếp tục đổi mới công tác quản lý nhà nước về du lịch ở Hà Nội, nhằm vì sự phát triển bền vững du lịch văn hoá ở Thủ đô Hà Nội trong thời gian tới.
Kết luận chương 2
Xem xét mối quan hệ giữa phát triển du lịch với việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và sắc thái văn hoá của Hà Nội là vấn đề rất đáng quan tâm. Hà Nội vừa là nơi hội tụ những tinh hoa văn hoá của cả nước vừa có sức lan toả văn hoá cho cả dân tộc. Chính điều này tạo ra ưu thế cho du lịch Hà Nội phát triển.
Hà Nội có nhiều di tích văn hoá, kiến trúc, tín ngưỡng dân gian, nhiều thiết chế văn hoá hiện đại. Những di sản, gía trị văn hoá này có ý nghĩa lớn đối với hoạt động du lịch, nhất là việc giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng, bản sắc văn hoá dân
tộc cho các thế hệ người Việt Nam. Việc khai thác các di sản và giá trị văn hoá này không những nhằm giữ gìn và phát triển văn hoá Hà Nội mà còn tăng thêm rất nhiều tính hấp dẫn cho du khách trong nước và quốc tế.
Tuy nhiên, phát triển du lịch ở Hà Nội trong mối quan hệ với phát triển văn hoá vẫn còn một số mặt hạn chế là:
- Một số lễ hội, sự kiện du lịch tính chuyên nghiệp chưa cao, đặc biệt các sự kiện du lịch trong nước chủ yếu là “ta diễn cho ta xem”. Các sự kiện lễ hội văn hoá du lịch diễn ra còn hay trùng lặp về nội dung. Mô típ chung của các lễ hội là đêm khai mạc ở dạng sân khấu hoá với các tiết mục mang nặng tính biểu diễn hình thức thiếu tính độc đáo của địa phương.
- Việc tổ chức một số lễ hội du lịch quá gần nhau về thời gian và địa điểm. Vì vậy không mang lại những hiệu quả như mong muốn.
- Các làng nghề truyền thống hiện nay có biểu hiện bị thương mại hoá và bị pha trộn các yếu tố ngoại lai, mất dần các giá trị văn hoá đích thực của nó.
- Trình độ của một số cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tế, đặc biệt là sự thiếu hiểu biết về văn hoá, về công tác quản lý do đó đã ảnh hưởng đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong hoạt động du lịch.
- Còn có sự thiếu đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá; kinh tế; an ninh; du lịch…
- Hệ thống cơ sở du lịch còn thiếu qui hoạch… cơ sở hạ tầng vẫn còn yếu kém chưa đáp ứng được nhu cầu của khách.
- Các tệ nạn xã hội trong hoạt động du lịch còn chưa được ngăn chặn và khắc phục triệt để.
Chương 3
phương hướng và giải pháp
nhằm tăng cường mối quan hệ giữa văn hoá
và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay
3.1. Phương hướng
Trong những năm qua sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể: Tình hình chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại và việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng. Đời sống văn hoá xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân được tiếp tục cải thiện. Thành tựu trên đây là nền tảng vững chắc cho sự phát triển văn hoá và du lịch ở nước ta trong thời gian tới.
Nếu như những giai đoạn trước đó du lịch chưa được nhìn nhận tương xứng với tiềm năng của nó thì trong thời kỳ đổi mới đường lối có tính định hướng chiến lược của Đảng đã mở ra cho du lịch Việt Nam sự phát triển mới, vóc dáng mới, vị thế mới.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định:
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. Phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ ngơi của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội của đất nước [57, tr.5-6].
Đảng và Nhà nước đã tăng cường sự lãnh đạo với công tác văn hoá và du lịch, tăng cường công tác quản lý, ban hành sửa đổi và bổ sung các chính sách, luật pháp liên quan đến du lịch, nhằm làm cho du lịch và văn hoá phát triển mạnh mẽ trong những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Các hoạt động của du lịch Việt Nam có thể nói đã được đặt đúng vị trí mà nó cần có hơn trong thời kỳ đổi mới và xu hướng của nền kinh tế thị trường. Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng tới tất cả hoạt động đầu tư cho du lịch, bảo đảm an ninh du lịch, khai thác các nguồn lực du lịch và đổi mới công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ du lịch, đào
tạo bồi dưỡng cán bộ… thực sự là đòn bẩy để phát phát triển du lịch Việt Nam trong tương lai.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX Đảng ta đã chỉ rõ cần phải bảo tồn và khai thác vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên và các di tích lịch sử để phát triển du lịch.
Một trong những nội dung cơ bản của thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong những năm trước mắt là: Phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ phục vụ cuộc sống nhân dân. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực. Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đó, Đại hội VIII của Đảng đã định hướng phát triển du lịch một cách toàn diện:
Triển khai thực hiện qui hoạch tổng thể du lịch Việt Nam tương xứng với tiềm năng du lịch của đất nước theo hướng du lịch văn hoá, sinh thái, môi trường. Xây dựng các chương trình và điểm du lịch hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử và khu danh lam thắng cảnh. Huy động nguồn lực của nhân dân tham gia kinh doanh du lịch, ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng ở những khu du lịch tập trung ở các trung tâm lớn. Nâng cao trình độ văn hoá và chất lượng dịch vụ với các loại khách khác nhau [20].
Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng tiếp tục xác định: cần phát triển du lịch văn hoá, lịch sử, đáp ứng nhu cầu dịch vụ trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường, trong xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thì các giá trị và di sản văn hoá ngày càng trở nên quan trọng, cần được đặt đúng vị trí của nó trong tiến trình phát triển của quốc gia, dân tộc. Một trong những hoạt động quan trọng liên quan đến các gía trị văn hoá quốc gia là hoạt động của ngành du lịch. Pháp lệnh du lịch (1999) đã nêu rõ: “Lấy văn hoá dân tộc làm cơ sở chính cho mọi hoạt động du lịch”. Pháp lệnh còn khẳng định: “Nhà nước thống nhất quản lý hoạt động du lịch, bảo đảm phát triển du lịch văn hoá, du lịch sinh thái giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam” [57, tr.6].
Xuất phát từ những quan điểm của Đảng ta về phát triển du lịch và văn hoá, đồng thời với nhận thức rõ vai trò to lớn của thủ đô Hà Nội, Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIII đã định hướng mục tiêu phát triển du lịch văn hoá là:
Nâng cao chất lượng và phát triển đồng bộ dịch vụ du lịch trở thành ngành quan trọng trong cơ cấu kinh tế thủ đô. Phát triển du lịch văn hoá - sinh thái, du lịch truyền thống, lễ hội, du lịch kinh doanh… kết hợp tốt giữa du lịch văn hoá với tôn tạo các di tích, danh lam thắng cảnh, giữa phát triển các sản phẩm du lịch với quảng bá truyền thống lịch sử, văn hoá Thăng Long - Hà Nội… Phối hợp với các địa phương khác để xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho các chương trình phát triển du lịch đa dạng… [39, tr.38].
Điều này phù hợp với nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hà Nội theo hướng: dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp trong đó ngành dịch vụ, đặc biệt là du lịch dịch vụ phải được phát triển mạnh cả về chất và lượng với trình độ cao hơn nhằm thực hiện thành công công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đảng bộ Hà Nội xác định mục tiêu: Xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành trung tâm du lịch của cả vùng Bắc Bộ và là một trung tâm du lịch lớn của cả nước và khu vực. Phát triển du lịch gắn với nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn với việc quảng bá, giới thiệu văn hoá và con người Hà Nội “ văn minh, thanh lịch, hiện đại.”
3.2. GiảI pháp
Để tăng cường mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch trên địa bàn Hà Nội nói riêng, nước ta nói chung cần quan tâm tới các giải pháp cơ bản là:
3.2.1. Xây dựng môi trường văn hoá trong hoạt động du lịch
Hoạt động du lịch bao gồm nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố cốt lõi quan trọng là văn hoá. Muốn du lịch phát triển bền vững, yếu tố văn hoá là một trong những điều kiện không thể thiếu được. Bởi vì các gía trị văn hoá trong các tua du lịch, các điểm du lịch đã làm tăng các giá trị thấm sâu vào môi trường sống, sinh hoạt, quan hệ cộng đồng, cá nhân của du khách. để mỗi du khách thoả mãn trong chuyến đi của họ, những yếu tố, những giá trị văn hoá Việt Nam làm cho họ cảm nhận một môi trường lành mạnh, bình yên, có sự độc đáo các nhân tố văn hoá trong đó. Chẳng hạn lòng hiếu