6,70 | 6,16 | 5,94 | 7,50 | 8,20 | 7,44 | 6,92 | 7,88 | 6,99 | 9,70 | 10,92 | |
Thái Lan | 26,04 | 27,70 | 21,96 | 24,73 | 25,20 | 22,54 | 24,52 | 25,64 | 30,05 | 24,25 | 24,48 |
Việt Nam | 11,13 | 11,18 | 10,67 | 13,00 | 10,25 | 8,92 | 10,90 | 10,09 | 10,59 | 14,66 | 12,12 |
Mỹ | 13,42 | 11,97 | 12,65 | 11,99 | 12,86 | 10,25 | 11,65 | 14,46 | 13,03 | 13,45 | 12,19 |
Nước khác | 29,37 | 27,73 | 23,2 | 25,02 | 24,52 | 35,74 | 21,9 | 22,44 | 20,27 | 20,9 | 21,64 |
Có thể bạn quan tâm!
- Kinh Nghiệm Về Nâng Cao Sức Cạnh Tranh Của Hàng Hóa
- Từ Chỗ Đề Cao Giá Trị Sử Dụng, Coi Nhẹ Giá Trị Đến Chỗ Coi Trọng Hai Thuộc Tính Của Hàng Hóa Ở Việt Nam
- Hạn Chế Của Sự Vận Dụng Lý Luận Hàng Hóa Vào Việc Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Hàng Hóa Việt Nam
- Cạnh Tranh Về Giá Trị Sử Dụng Của Hàng Hóa Việt Nam
- Định Hướng Và Giải Pháp Để Nâng Cao Sức Cạnh Tranh Của Hàng Hóa Việt Nam
- Tăng Năng Lực Nội Sinh Về Khoa Học Công Nghệ Việt Nam
Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.
Nguồn: United States Department of Agriculture và tổng hợp của tác giả
Những bảng trên cho thấy, xét theo giá trị, kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam tương đương 12,12% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo thế giới năm 2006, bằng ½ kim ngạch xuất khẩu gạo Thái Lan và thấp hơn một chút so với kim ngạch gạo Ấn Độ. Đáng lưu ý là, dù sản lượng gạo xuất khẩu tăng lên theo từng năm nhưng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu vẫn dao động quanh mức 10%
– 14% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo thế giới.
Tương tự, dù giữ vị trí thứ hai tại thị trường dệt may Mỹ, nhưng hàng dệt may Việt Nam cũng chỉ chiếm thị phần 0,07% (năm 2001), 3,64 (năm 2006), và mới đạt đến 5,82% (năm 2008) [49, tr.73].
Hai là, sự mở rộng thị phần của hàng hóa Việt Nam trên thị trường hàng hóa cao cấp vẫn còn hạn chế. Nhiều loại hàng hóa Việt Nam không đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu hoặc không thể cạnh tranh được với hàng hóa của các quốc gia khác. Ví dụ, dù số lượng thị trường tăng từ 20 quốc gia (1991) lên hơn 80 quốc gia (2005), nhưng thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam chủ yếu là thị trường Châu Á.
Biểu đồ 2.1 cho thấy, trong năm 2007 và 2008 Việt Nam xuất khẩu trên 50% gạo sang các thị trường Châu Á, trong khi thị trường Châu Mỹ chỉ chiếm hơn 10%, thị phần Châu Âu chỉ chiếm từ 1,9% đến 3,3%. Gạo xuất khẩu đã xâm nhập từng bước vào những thị trường khó tính như Anh, Thụy Sỹ, Pháp, Hồng Kông, Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan... nhưng vẫn ở mức khiêm tốn do đòi hỏi tiêu chuẩn kỹ thuật, yêu cầu chất lượng rất khắt khe, chỉ một bộ phận gạo chất lượng cao mới đáp ứng được [54, tr.53]. Báo cáo ngành hàng gạo Việt
Nam cho thấy, năm 2007 các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam dành ưu tiên và dự kiến xuất khẩu sang Nhật Bản khoảng 150.000 - 170.000 tấn gạo, nhưng đến tháng 10/2007, tổng lượng gạo xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản mới đạt 60050 tấn, tương đương 40% kế hoạch [54, tr.56]. Tại những thị trường cao cấp này, gạo Việt Nam chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của gạo cao cấp Thái Lan [54, tr.57].
Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đi các thị trường năm 2007-2008
58.8%
78.1%
15.8%
11.5%
22.0%
8.4%
3.3%
1.9%
0.1%
0.1%
Châu Á Châu Mỹ Châu Phi Châu Âu
Châu đại dương
0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90%
2007 2008
Nguồn: Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (2009), Báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam 2008, triển vọng 2009
Ba là, tại nhiều ngành hàng, thị phần hàng hóa Việt Nam đang mở rộng dần cho thấy sức cạnh tranh của hàng hóa ngày càng tăng thêm trên thị trường quốc tế. Hàng hoá của Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới (trên 180 thị trường) gồm những thị trường lớn (Mỹ, Liên minh Châu Âu, Trung Quốc…) và những thị trường mới (Nga, Châu Phi..). Xu hướng này thể hiện ở sự tăng trưởng xuất khẩu tương đối nhanh: Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 62,9 tỷ USD, tương đương mức tăng trưởng hơn 29%, với 10 nhóm hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD/mặt hàng. Nhóm
hàng dệt may, giày dép, hải sản vẫn là những mặt hàng có tỷ trọng lớn và tốc độ tăng trưởng khá trong điều kiện kinh tế trên đà suy thoái hiện nay. Một số mặt hàng khác cũng có kim ngạch tăng nhanh như: sản phẩm gỗ, dây điện và cáp điện, máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện...[39].
Đáng lưu ý là, xu hướng mở rộng sức cạnh tranh được đẩy mạnh khi quan hệ thương mại song phương, đa phương của Việt Nam với Mỹ, Liên minh Châu Âu… được chú trọng. Chẳng hạn, tại thị trường Mỹ, thị phần tuyệt đối hàng dệt may Việt Nam tăng nhanh trong khi thị phần hàng dệt may các nước khác giảm nhanh:
Bảng 2.3: Sự thay đổi thị phần các nước xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ.
Đơn vị: %
2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | |
Trung Quốc | 9,3 | 12,11 | 14,99 | 17,15 | 25,11 | 29 | 33,53 | 35,07 |
Mexico | 12,73 | 10,28 | 8,92 | 8,02 | 6,81 | 5,68 | 5,48 | 5,32 |
Ấn Độ | 3,75 | 4,15 | 4,15 | 4,36 | 5,17 | 5,39 | 5,29 | 5,45 |
Hồng Kông | 6,27 | 5,59 | 4,93 | 4,75 | 4,04 | 3,1 | 2,2 | 1,77 |
Indonesia | 3,63 | 3,23 | 3,07 | 3,14 | 3,45 | 4,18 | 4,36 | 4,55 |
Việt Nam | 0,07 | 1,32 | 3,21 | 3,26 | 3,23 | 3,64 | 4,73 | 5,82 |
Canada | 4,5 | 4,43 | 4,03 | 3,7 | 3,19 | 2,77 | 2,28 | 1,77 |
Honduras | 3,34 | 3,39 | 3,24 | 3,21 | 2,95 | 2,62 | 2,61 | 2,8 |
Banglades | 3,14 | 2,76 | 2,5 | 2,48 | 2,75 | 3,21 | 3,3 | 3,8 |
Thái Lan | 3,48 | 3,05 | 2,68 | 2,64 | 2,38 | 3,38 | 2,13 | 2,12 |
Philipin | 3,2 | 2,82 | 2,63 | 2,33 | 2,15 | 2,24 | 1,86 | 1,53 |
Nước khác | 46,59 | 46,87 | 45,65 | 44,96 | 38,77 | 34,79 | 32,23 | 30,00 |
Total | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 |
Nguồn: http://www.otexa.ita.doc.gov, Luận án “Sức cạnh tranh hàng dệt may của Việt Nam trên thị trường Hoa kỳ” [49, tr.73] và tính toán của tác giả.
Bảng trên cho thấy, năm 2001, dệt may Việt Nam chỉ chiếm 0.07% thị trường Mỹ, sau 1 năm, thị phần này đã tăng lên 1,32% - tức gần 20 lần (do tác động của Hiệp định thương mại song phương Việt Nam và Mỹ). Từ sau 2002, thị phần dệt may Việt Nam liên tục tăng lên nhanh chóng, đạt 3,21% năm 2003 (gấp khoảng 45 lần so với thị phần 2001), đạt 5,82% (tăng trên 8000% so với thị phần 2001). Nhờ đó, Việt Nam liên tục đứng trong nhóm các nhà cung cấp lớn nhất cho thị trường Mỹ, vị trí thứ hai trong năm 2008. Hơn nữa, từ 2001 đến 2008, thị phần dệt may Việt Nam tăng trưởng trong sự cạnh tranh quyết liệt với những bạn hàng lâu đời tại thị trường Mỹ: Mexico từ vị trí số 1 (13,52% - 2000) xuống vị trí thứ 4 (5,32% - 2008), Hồng Kông từ vị trí thứ 3
(6,57% - 2000) xuống vị trí 11 (chỉ 1,73% - 2008), Canada từ vị trí 4 (4,67% - 2000) xuống vị trí 10 (1,77% - 2008). Thị phần co lại của các đối thủ cạnh tranh cho thấy, dệt may Việt Nam nói riêng, hàng hóa Việt Nam nói chung, không những đuổi kịp mà còn vượt xa nhiều đối thủ khác đã buôn bán ở Mỹ từ trước như Canada, Thái Lan, Hồng Kông…
Bảng 2.4: Thị phần tương đối của hàng dệt may Việt Nam so với hàng dệt may Ấn Độ trên thị trường Mỹ
2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | |
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam (triệu USD) | 49,3 | 952 | 2484 | 2720 | 2881 | 3396 | 4558 | 5425 |
Xuất khẩu hàng dệt may Ấn Độ (triệu USD) | 2633 | 2993 | 3212 | 3633 | 4616 | 5314 | 5104 | 5078 |
Thị phần tương đối của Việt Nam / Ấn Độ (%) | 1,87 | 31,81 | 77,35 | 74,77 | 64,22 | 67,53 | 89,42 | 106,8 |
Nguồn: Nguyễn Thị Tú (2009), Sức cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ, Luận án TS Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr77
Có thể nhận thấy sự tăng lên của thị phần hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ khi xem xét sự thay đổi của tỷ số giữa thị phần dệt may Việt Nam và thị phần dệt may của nước khác, hay thị phần tương đối.
Bảng 2.4 cho thấy, trên thị trường Mỹ, thị phần dệt may Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng qua từng năm so với dệt may Ấn Độ. Nếu như năm 2001, dệt may Việt Nam chỉ bằng 1,87% thị phần dệt may Ấn Độ, thì đến 2003, con số này tăng khoảng trên 40 lần đạt 77,35%; Đến 2008, thị phần dệt may Việt Nam đã vượt và bằng 106,8% thị phần của Ấn Độ, như vậy thị phần Việt Nam đã mở rộng khoảng 57 lần trong 8 năm từ năm 2001.
2.2.2 Cạnh tranh về giá trị - giá cả của hàng hóa Việt Nam
2.2.2.1 Điểm mạnh trong cạnh tranh về giá trị - giá cả của hàng hóa Việt Nam
Những hàng hóa Việt Nam thậm lao động và tài nguyên (nông sản, dệt may, chế biến thủy hải sản…) có giá cả tương đối thấp hơn so với hàng hóa tương tự của các quốc gia khác.
Bảng 2.5: Giá gạo (FOB) ở một số nước ASEAN
Đơn vị: USD/Tấn
Phẩm cấp | 2007 | 2008 | |
Campuchia | Gạo 5% tấm | 523 | 668 |
Mi-an-ma | Gạo 25% tấm | 260 | 315 |
Thái Lan | Gạo Hommali | 562 | 902 |
Gạo 5% tấm | 328 | 688 | |
Việt Nam | Gạo 5% tấm | 310 | 601 |
Nguồn: ASEAN Agricultural Commodity Outlook [65]
Bảng trên cho thấy, giá cả gạo Việt Nam thường thấp tương đối so với các đối thủ cạnh tranh chính tại nhiều phân khúc thị trường [86]. Trong đó, gạo chất lượng cao của Việt Nam luôn có giá thấp hơn gạo chất lượng cao của
Thái Lan trong năm 2007, 2008. Tại thời điểm tháng 8/2009, giá gạo Việt Nam loại 5% tấm đã giảm xuống 392,94USD/tấn, loại 25% tấm giảm còn 340,39USD/tấn, nhưng gạo Thái Lan 5% tấm vẫn giữ mức 524,56USD/tấn, loại 25% tấm có giá 423,06USD/tấn [24, tr.37]. Giá cả lúa, gạo thấp phần lớn là do chi phí sản xuất lúa gạo Việt Nam rất thấp, thậm chí, chi phí sản xuất tại đồng bằng sông Cửu Long ở mức thấp nhất thế giới.
Lợi thế về giá trị - giá cả của các loại hàng hóa trên chủ yếu xuất phát từ lợi thế về sức lao động và tài nguyên nội địa có giá cả thấp.
Bảng 2.6: Chi phí sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và Thái Lan.
Đơn vị: USD/tấn
Đồng bằng sông Cửu Long | Thái Lan | So sánh % Việt Nam/ Thái Lan | |
1997 | 8,97 | 9,37 | 95,6 |
1998 | 8,20 | 7,86 | 104,2 |
1999 | 7,01 | 8,62 | 81,4 |
2000 | 7,79 | 8,08 | 96,5 |
2001 | 6,53 | 7,36 | 86,3 |
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2005), Khả năng cạnh tranh nông sản Việt Nam trong hội nhập AFTA, Quỹ nghiên cứu IAE-MISPA Bảng trên cho thấy, trong ngành gạo, chi phí sản xuất lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long luôn thấp hơn Thái Lan khoảng 5 - 20%. Nguyên nhân là, chi phí lao động Việt Nam chỉ bằng 1/3 so với Thái Lan, trong khi năng suất lao động của Việt Nam cao hơn 1,5 lần so với Thái Lan [51, tr.98]. Xét theo chỉ số chi phí nguồn lực nội địa (DRC) của gạo Việt Nam xuất khẩu giai đoạn 1995 -2000 là 0,49, của đồng bằng sông Cửu Long là 0,5, còn của Thái Lan là 0,9. Tức là, để tạo ra 100USD lúa hàng hóa, người nông dân đồng bằng
sông Cửu Long chỉ cần 50USD, trong khi đó ở Thái Lan là 90USD [30].
Trong lĩnh vực dệt may, tiền thuê nhân công Việt Nam thấp hơn tiền công tại các nước phát triển và đang phát triển. Ví dụ, giá thuê sức lao động Việt Nam thấp hơn khoảng 20%-30% so với lao động Thái Lan [74]. Tuy nhiên, do sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên phụ liệu nhập khẩu nên giá cả hàng dệt may Việt Nam vẫn tương đối cao so với hàng hóa Trung Quốc, Ấn Độ [89].
Như vây, nhờ tận dụng lao động và điều kiện tự nhiên thuận lợi vào sản xuất, giá cả hàng hóa Việt Nam thấp hơn so với hàng hóa từ các nước khác có trình độ sản xuất tương tự. Đó là là điều kiện tốt để hàng hóa Việt Nam cạnh tranh với nhiều đối thủ khác.
2.2.2.2 Điểm yếu trong cạnh tranh về giá trị - giá cả của hàng hóa Việt Nam
Khả năng hạ thấp giá trị còn hạn chế do năng suất lao động của doanh nghiệp Việt Nam chưa tăng nhanh. Chẳng hạn, trong ngành dệt may, năng suất lao động của doanh nghiệp dệt may chỉ ở mức trung bình so với nhà sản xuất từ nhiều quốc gia khác.
Bảng 2.7: Năng suất của một số thiết bị dệt may sử dụng tại Việt Nam
Việt Nam | Cao nhất thế giới | ||
Trung bình | Cao nhất | ||
Kéo sợi (cọc/người) | 90 | 246 | 300 |
Dệt thoi (máy/người) | 10 – 12 | 32 | 50 |
May sơ-mi (sản phẩm/người/8h) | 12,2 | 19,5 | 30 |
Quần Kaki (sản phẩm/người/8h) | 10,2 | 13,5 | 20 |
Nguồn: Luận án TS Kinh tế “Sức cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ”, Nguyễn Thị Tú, 2009, tr113.
Bảng số liệu cho thấy, năng suất kéo sợi của doanh nghiệp Việt Nam trung bình chỉ bằng 30% so với những nhà sản xuất tiên tiến của thế giới. Doanh nghiệp dệt thoi cũng chỉ có năng lực sản xuất tương đương 20% năng lực dệt thoi của mức cao nhất thế giới. Trong ngành may, năng suất lao động tốt nhất của Việt Nam (19,5 sản phẩm/người/8h) cũng chỉ bằng hơn 60% năng suất lao động cao nhất của thế giới. So sánh với các đối thủ cạnh tranh, năng suất lao động bình quân ở ngành may mặc Việt Nam chỉ bằng 80% của Trung Quốc, và 60% so với mức trung bình của các doanh nghiệp tại Hồng Kông, Malaysia. Như vậy, năng suất lao động của doanh nghiệp Việt Nam còn cách mức đỉnh cao năng suất lao động một khoảng cách rất xa.
Năng suất lao động chưa cao, một mặt, là do trình độ khoa học công nghệ còn thấp. Theo số liệu thống kê, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới khoảng 2-3 thế hệ, có 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập khẩu là công nghệ của những năm 1980, 75% thiết bị đã hết khấu hao. Tính chung cho các doanh nghiệp, mức độ thiết bị hiện đại chỉ chiếm 10%, mức độ trung bình là 38%, mức độ lạc hậu là 52%. Trong khi đó, sự đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn khiêm tốn, chỉ chiếm 0,2-0,3% doanh thu, so với mức 5% của Ấn Độ hay 10% của Hàn Quốc. Do vậy, theo đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ, đổi mới công nghệ là một trong những năng lực yếu nhất của doanh nghiệp Việt Nam [57, tr.14]. Chẳng hạn, công nghệ dệt may Việt Nam còn lạc hậu, mức độ đổi mới công nghệ chậm, các thiết bị hiện đại của các nước có công nghệ nguồn như Đức, Thụy Sỹ, Italia, Pháp... mới chiếm khoảng 30% tổng số thiết bị ngành dệt may Việt Nam [49, tr.103]. Nhiều chuyên gia đánh giá, trình độ công nghệ ngành dệt Việt Nam lạc hậu khoảng 10-15 năm so với các nước tiên tiến, trong khi đó, trình độ tự động hóa chỉ đạt được mức trung bình, vẫn có nhiều công đoạn sử dụng lao động thủ công. Khảo sát của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) cho thấy, tính đến tháng