Lễ hội oóc pò với sli, lượn của người nùng phàn slình ở hoà bình - đồng hỷ - Thái Nguyên - 9


đặc sắc cho lễ hội Oóc Pò. Và ngược lại lễ hội Oóc Pò lại chính là môi trường làm nảy sinh, nuôi dưỡng, phát triển các bài ca dân gian này.

Hát sli, hát lượn và lễ hội Oóc Pò chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội tộc người Nùng Phàn Slình, ở đó không chỉ có sự ứng xử của con người mà còn hàm chứa nhiều giá trị văn hoá tộc người.

Theo thời gian, những sinh hoạt văn hoá chung của cộng đồng dân tộc trong đó có lễ hội Oóc Pò đang có sự biến đổi. Vì vậy cần thiết phải có những phương án bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tích cực trong đời sống cộng đồng người Nùng ở xã Hoà Bình huyện đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên nói riêng và dân tộc Nùng nói chung. Bên cạnh việc khai thác, sưu tầm và việc các nghệ nhân giảng dạy, truyền lại cho thế hệ trẻ sự hiểu biết về các bài ca dân gian và những giá trị tinh thần, tâm linh của lễ hội Oóc Pò, cần kết hợp với việc tuyên truyền, giáo dục trong nhà trường ở các cấp học để thế hệ trẻ có thêm những hiểu biết về vốn văn hóa, văn học của dân tộc mình.


KẾT LUẬN


Hát sli, hát lượn là những làn điệu quen thuộc và phổ biến của dân tộc Nùng, giai điệu bổng trầm thiết tha, hai giọng hoà quyện như tiếng gió reo vui, như tiếng vọng của núi rừng hùng vĩ. Muôn đời dân ca tự nó vẫn vậy tha thiết, ngọt ngào, mang đến cho cuộc sống con người những hương vị thơm ngát khó phai.

Đến với xóm bản của người Nùng Phàn Slình vào những ngày đầu năm, vào dịp dân bản đang nhộn nhịp chuẩn bị cho lễ hội Oóc Pò, giữa mùa của muôn hoa khoe sắc, được nghe những làn điệu trữ tình mượt mà của họ mới thấy hết sự hấp dẫn và phong phú trong kho văn hoá, văn học dân gian và đời sống tinh thần của họ.

Qua quá trình sưu tầm, khảo sát và phân tích sli, lượn và lễ hội Oóc Pò của người Nùng Phàn Slình, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.

1. Người Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên sống tập trung chủ yếu ở xóm Tân Đô. Mặc dù không phải là người bản địa mà là một nhóm người Nùng Phàn Slình di cư từ Lạng Sơn xuống định cư tại đây từ những năm 30 của thế kỉ XX, nhưng cộng đồng dân tộc Nùng Phàn Slình nơi đây đã bảo lưu được những bản sắc văn hoá phong phú của dân tộc mình.

Nền kinh tế của người Nùng Phàn Slình là nền kinh tế nông nghiệp, chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi với quy mô nhỏ, đảm bảo tự cung tự cấp. Ngoài ra còn một số hoạt động khác như săn bắn, thu hái các loại rau rừng.

Lễ hội oóc pò với sli, lượn của người nùng phàn slình ở hoà bình - đồng hỷ - Thái Nguyên - 9

Về văn hoá tinh thần, người Nùng Phàn Slình rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên và các vị thần linh. Ngoài ra họ còn dựng đình thờ thành Hoàng làng, hàng năm vào những dịp lễ tết, người dân trong xóm lại mang lễ vật hương hoa ra đình để dâng lên các vị thần, cầu mong sức khoẻ bình an cho con người và vật nuôi, cây trồng. Đặc biệt vào dịp đầu xuân người Nùng Phàn Slình lại tổ chức lễ hôị Oóc Pò để cầu cho mùa màng tươi tốt, mọi người bình an.


Về văn hoá nghệ thuật, người Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ

- Thái Nguyên có một kho tàng văn học dân gian phong phú, độc đáo, những bài ca dân gian như: sli, lượn, cổ lẩu trữ tình mượt mà. Những điệu múa dân gian như múa kì lân, múa xiêng tâng, múa cầu mùa vẫn được người dân nơi đây lưu truyền.

Tất cả những điều này đã cho thấy những nét văn hoá phong phú, đặc sắc, lâu đời của người Nùng Phàn Slình vẫn được lưu giữ.

2. Tìm hiểu sli, lượn của người Nùng phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên, chúng tôi nhận thấy nội dung phản ánh của làn điệu này rất phong phú, mang nét độc đáo và thể hiện được bản chất văn hoá miền núi một cách đặc sắc.

Đến với các bài ca dân gian này, người nghe như bước vào thế giới tâm hồn, tình cảm của con người. Đó là những bài ca ca ngợi con người, ca ngợi cuộc sống của con người với chiều sâu của thế giới tình cảm. Ở đó là những nét đẹp về cách ứng xử của con người trong các mối quan hệ gia đình, xã hội. Tất cả đều toát lên vẻ đẹp của sự hiếu khách, tình nghĩa, hiếu thuận của con người. Những bài ca diễn tả khát vọng, mong ước về một cuộc sống bình yên, hạnh phúc.

Những bài hát sli, hát lượn đã phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan của người Nùng Phàn Slình trong quá trình xây dựng xóm bản, xây dựng cuộc sống. Cách thể hiện đậm chất miền núi, với văn hoá vườn đồi, nương bãi. Những bức tranh thiên nhiên về cảnh sắc núi rừng hùng vĩ với những nét vẽ khoẻ khoắn, những hình ảnh mơn mởn, tươi non của những loài hoa đang đua hương, khoe sắc…Bức tranh về một bản làng trù phú về sự phồn thịnh, no đủ của xóm bản…Tất cả đều hiện ra rõ nét trong những bài sli, bài lượn.

Cũng như rất nhiều các dân tộc khác, tình yêu lứa đôi là đề tài muôn thuở đã được thể hiện trong sli, lượn. Một thế giới với bao cung bậc tình cảm


và khát vọng hạnh phúc lứa đôi đã tạo nên sức sống và sự hấp dẫn cho các làn điệu sli đối đáp, các bài lượn tỏ tình, ngợi ca.

3. Sức hấp dẫn, giá trị của những bài sli, bài lượn của người Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên không chỉ ở nội dung phản ánh mà còn bởi những nét đặc sắc về nghệ thuật.

Về ngôn ngữ: ngôn ngữ trong lời thơ của sli, lượn là ngôn ngữ giàu hình ảnh, mang tính hình tượng đậm chất dân tộc. Ngôn ngữ vừa giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày, thể hiện nếp cảm, nếp nghĩ, lối tư duy của người miền núi. Phương thức xây dựng hình tượng đậm chất miền núi ấy là việc vận dụng khéo léo, tài tình, hiệu quả các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ. Nhờ các biện pháp tu từ này, mọi tâm tư, tình cảm của con người đều được thể hiện đầy ẩn ý, bóng gió… Chính các thủ pháp nghệ thuật này đã tạo nên cho làn điệu sli, lượn dồi dào về hình tượng, sinh động về màu sắc và ý nghĩa biểu đạt.

Kết cấu của những bài ca sli, lượn là kết cấu đối đáp và kết cấu lặp cùng sự kết hợp của hai yếu tố tự sự và trữ tình đã làm nổi bật giá trị nội dung của mỗi bài ca, đồng thời tạo ra chất nhạc trong âm điệu nhịp nhàng, âm thanh trầm bổng cho lời thơ. Đây là một nét độc đáo trong hình thức nghệ thuật của những bài sli, bài lượn của người Nùng Phàn Slình ở xã Hoà Bình.

Hình thức diễn xướng là yếu tố không thể thiếu mỗi khi nhắc tới việc tìm hiểu các tác phẩm văn học dân gian. Tuỳ vào mỗi bài ca, gắn với mỗi loại hình sinh hoạt văn hoá, nghi lễ khác nhau lại có những hình thức diễn xướng cụ thể khác nhau. Đặt trong môi trường diễn xướng cụ thể mới thấy hết được giá trị của những bài ca dân gian này.

Những yếu tố nghệ thuật và một số đặc điểm về nội dung kể trên chính là những yếu tố quan trọng tạo nên giá trị riêng cho sli, lượn của người Nùng Phàn Slinh, tạo nên sức hút với thế hệ những người say mê hát sli, hát lượn.


Khẳng định vị trí quan trọng của những làn điệu dân ca này trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc.

4. Lễ hội nông nghiệp là lễ hội truyền thống của cộng đồng các dân tộc sống trong khu vực có nền văn hoá nông nghiệp lúa nước. Người Nùng Phàn Slình ở xã Hoà Bình huyện Đồng Hỷ hàng năm cũng tổ chức lễ hội Oóc Pò, dâng lễ vật là những sản phẩm lao động nông nghiệp để cúng tế thần linh cầu mong một năm mưa thuận gió hoà, vạn vật tốt tươi, đời sống dân bản ấm no, hạnh phúc. Đây là một lễ hội truyền thống mang những nét đặc trưng của người Nùng Phàn Slình.

Đến với lễ hội Oóc Pò không chỉ là đến với một lễ hội mà còn đến với những nét đẹp trong văn hoá ứng xử của người Nùng Phàn Slình. Lễ hội bản thân nó đã mang những yếu tố tâm linh với tín ngưỡng thờ cúng và yếu tố phồn thực, cầu mong cho âm dương giao hoà, tạo sự sinh sôi phát triển.

Lễ hội cũng là dịp để mọi người nghỉ ngơi, vui chơi trong những ngày xuân. Trong lễ hội, phần hội thu hút sự tham gia đông đảo của mọi người. Đây cũng là dịp để nam nữ thanh niên Nùng Phàn Slình gặp gỡ, hẹn hò, yêu thương. Họ hát những bài sli, bài lượn để thử tài đối đáp và qua những bài ca ấy, những tâm hồn đồng điệu đã tìm đến với nhau, họ kết thân và sau này tính chuyện trăm năm.

Người Nùng rất yêu thích hát sli, hát lượn, những tiếng hát ấy là một phần không thể thiếu trong ngày hội Oóc Pò, nó làm nên sự phong phú, hấp dẫn của lễ hội. Giữa lễ hội Oóc Pò và các bài sli, bài lượn hát trong lễ hội có một mối quan hệ gắn bó, khó có thể tách rời, bởi lễ hội chính là hoạt động sinh hoạt văn hoá của cộng đồng, là môi trường diễn xướng của sli, lượn, là yếu tố tác động đến sự nảy sinh và phát triển của những bài ca dân gian này.

Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của các cộng đồng là phương hướng đúng đắn đồng thời là nhiệm vụ của văn hoá nghệ thuật ở nước ta hiện nay.


Đó là công việc đòi hỏi sự kết hợp đồng bộ của các cấp chính quyền và nhân dân. Việc làm đó góp phần quan trọng vào việc duy trì, bảo tồn và phát huy những giá trị vốn có của văn hoá dân gian các dân tộc Việt Nam.

5. Thực hiện đề tài này, mặc dù người viết đã có nhiều cố gắng và được sự giúp đỡ tận tình của các nhà nghiên cứu, các nghệ nhân dân tộc, nhưng do điều kiện và khả năng còn hạn chế, đặc biệt là khó khăn do không thạo tiếng Nùng…cho nên luận văn có thể chưa giải quyết thoả mãn những yêu cầu cần tìm hiểu về sli, lượn và lễ hội Oóc Pò của người Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình

- Đồng Hỷ - Thái Nguyên, và không tránh khỏi những sai sót chủ quan. Nhưng đây là một cơ hội để bản thân người viết có thể tìm hiểu về một loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc, góp phần làm giàu vốn hiểu biết của mình về kho tàng văn hoá dân tộc.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bắc Kạn thế và lực trong thế kỉ XXI, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.

2. Bùi Mạnh Nhị, Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao - dân ca trữ tình – Tạp chí văn học số 1/1997.

3. Bùi Mạnh Nhị (2000), chủ biên, Văn học dân gian những công trình nghiên cứu.

4. Bước đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc, Sở VHTT khu tự trị Việt Bắc.

5. Đặng Văn Lung (1997) Nghiên cứu văn nghệ dân gian Việt Nam, NXB Văn hoá dân tộc.

6. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, NXB giáo dục.

7. Đinh Gia Khánh (2002), chủ biên, Văn học dân gian Việt Nam, NXB giáo dục.

8. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hoà (1998), Phong cách học tiếng Việt – NXB Giáo dục.

9. Hoàng Tiến Tựu (1998), Bình giảng ca dao – NXB Giáo dục.

10. Hoàng Tiến Tựu (1998), Văn học dân gian Việt Nam – NXB Giáo dục

11. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội.

12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2002), chủ biên, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia.

13. Lê Chí Quế (2001), chủ biên, Văn học dân gian Việt Nam – NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

14. Mông Ky Slay, Lê Chí Quế, Hoàng Huy Phách (1992), Dân ca Nùng, NXB Văn hoá dân tộc Hà Nội.

15. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá Việt Nam

– NXB Khoa học xã hội.


16. Nhiều tác giả (1992), Văn hoá dân gian – những phương pháp nghiên cứu – NXB Khoa học xã hội

17. Nguyễn Thị Yên (2009), Tín ngưỡng dân gian Tày Nùng – NXB Khoa học xã hội.

18. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học-

NXB Khoa học xã hội.

19. Nguyễn Xuân Kính (2004), Thi pháp ca dao – NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

20. Phan Thị Đào(2001), Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam – NXB Thuận Hoá.

21. Phim tài liệu: Đám cưới người nùng và câu chuyện về chiếc túi nải - Sở văn hoá thông tin tỉnh Thái Nguyên.

22. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học – NXB Đại học Sư phạm.

23. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học – NXB giáo dục.

24. Tuyển tập bài viết của các tác giả trong và ngoài Bảo tàng từ năm 1960 – 2005 (Thái Nguyên 2005), 45 năm Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam.

25. Vi Hồng (1979), chủ biên, Sli, lượn, dân ca trữ tình tày - nùng – NXB văn hoá.

26. Vi Hồng (2001), sưu tầm, biên soạn, Thì thầm dân ca nghi lễ, NXB Văn hoá dân tộc.

27. Viện khoa học xã hội – Viện văn học (1992), Các dân tộc Tày – Nùng ở Việt Nam

28. Võ Quang Nhơn (1983), chủ biên, Văn học dân gian các dân tộc thiểu số, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp.

29. Vũ Ngọc Phan (2004), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam – NXB văn học.


PHỤ LỤC 1

LỜI CA MỘT SỐ LÀN ĐIỆU SLI, LƯỢN CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở HOÀ BÌNH - ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN

(Tài liệu do người viết sưu tầm, người dịch: Ông Hoàng Văn Toòng, Ông Hoàng Văn Bạn ở Tân Đô - Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên)


I. SLI


BÀI 1: ĐỐI ĐÁP

PHIÊN ÂM

- Nhòi ơi cầm tin mà quà vì Slà căn khảy chỉ tắc hòi hớ

- Mạy dển tình xá tùng sùm sùm Cu tằm sằm mùng cu slung dà

- Pù nảy cầm tin mà quà bản Sồ và pù slơ tắc hòi hớ

- Sloong làu chay qua lòng coóc mạy Bồ đảy kin ăn sằm chều va

- Thế păn lòng mà cừn tang coóc Pù nảy lọp căn nhòi ơi dà

- Tồ xày slể slư khảu thin téc Cào thin mìn phéc nhằng sì slư.

DỊCH NGHĨA

- Rồng phượng bay qua bao sông biển Có biết hai ta tình vấn vương

- Một năm mười hai tháng trôi qua Ong bướm cùng giao hoà vui sướng

- Anh yêu em qua năm những nămtháng Như chim rừng uống nước suối tiên

- Em thương anh qua những năm tháng Như chim rừng uống nước suối ngàn


- Trông nàng vừa đẹp lại vừa xinh Quả ngon lòng ngậm ngùi nhớ mãi

- Rừng xanh xuất hiện đôi măng trúc Ruộng tốt xuất hiện bong lúa vàng.

B ÀI 2 ĐỐI ĐÁP

PHIÊN ÂM


DỊCH NGHĨA


- Sắc cát chang slôn sắc cát ón Mì cừn khảu thon bồ xằng hớ

- Sắc cát chang slôn sắc cạt mạy Mì cưn kin đảy nhòi ơi dà

- Phấn tóc long mà, óc bồ pằn Coòng noòng mà chăn vài tề nà

- Chang dênh pò sài bồ tóc thàn Chều tàn hét chai đăư thú lờ

- Cu doóc pét slên khửn choòng hải Lòm pặt tề vài pay bởng hớ

- Chêu khảu đong pay khắm mạy cồ Khắm tề dà lồ lồ dà xá

- Pèn dờng mạy long tẳng thú hàng Khắm long dà quảng mọi vằn hớ

- Mạy phéo mạy mời khửn choòng phạ Tắp nà ben pay kỷ tòng nà


- Rau cải trong vườn rau cải non Đã có người nào định hái chưa

- Rau cải trong vườn rau cải cây Người nào ăn được thì sẽ ăn


- Nếu khi chúng mình quyết tâm cao Không ai có thể ngăn cản được

- Lời nói nam giới nhiều văn vẻ Cứ tin như vậy biết bao giờ

- Bông hồng lơ lửng giữa biển khơi Gió thổi chiều nào theo chiều đó

- Trông nàng râm như bóng cây to Liệu mình có được hưởng hay không

- Chúng mình như cây mọc gần chợ Nên cả cuộc đời mãi mãi vui

- Cây tre, cây mai có người trồng Phụ nữ chỉ là một đám mây.

BÀI 3: CONG HÔ

PHIÊN ÂM:


Công hỉ đăư lờn công hỉ lai Công hỉ đăư lờn tài phát sài Cong hỉ đăư lờn tài lình lì

Pi nảy oóc pay nhung nền lai. Pi nảy oóc pay nhung nền tại Pao hử đăư lờn sleng lục slài Pao hử đăư lờn sleng lục bào Pay khảo nà mình pèn eng tài Pay khảo nà mình pèn cừn giỏi

Chét chu Thái Nguyên đảy nhờ lai.

DỊCH NGHĨA:

PHÙ HỘ - (NGÀY THÁNG GIÊNG)

Ông chủ gia đình hiều niềm vui Ông chủ gia đình đại giàu có


Ông chủ trong nhà nhiều may mắn Năm nay trở đi sung sướng nhiều. Năm nay làm ăn đều như ý

Phù hộ trong nhà sinh con trai Phù hộ trong nhà sinh trai trưởng Lớn lên đi học thành người tài Sau này đ ixa thành người giỏi

Bảy phía Thái Nguyên được nhờ nhiều


B ÀI 4: XA SLUNG

PHIÊN ÂM


Xá slung xá tằm xá cách xá Xếp hằm khắm lòng đổi tu pa Xếp hằm khắp lòng đổi tu slinh Tằng đéch lền kè lòng to ma Tằng đéch lền kè lòng to hử

Só sình sồi ngàu khảu tỳ mà Só sình sồi ngàu mà khảu tỳ Đảy pay 4 coóc đổi tào va.

DỊCH NGHĨA

- NÚI CAO


Núi cao núi thấp núi cách núi Buổi chiều mặt trời râm đến cửa Buổi chiều mặt trời râm đến vườn Cả già lẫn trẻ dẫn nhau về

Cả già lẫn trẻ cùng che nhau Bạn ơi xuất hiện vào làng này Bạn ơi xuất hiện tại nhà này

Đi bốn phương trời mình gặp nhau.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/04/2022