Kinh tế học vĩ mô - 2


Biểu diễn những khả năng này trên đồ thị và nối những điểm này lại ta được đường giới hạn khả năng sản xuất.


Quần áo

A

B

N

C

D

M

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

E

F

Kinh tế học vĩ mô - 2

7,5


6


4,5


3


1,


0 1 2 3 4 5 Lương thực


Hình 1.1: Đường giới hạn khả năng sản xuất

Phương án lựa chọn A là phương án toàn bộ nguồn lực chỉ sản xuất quần áo, tại đây số lượng quần áo được sản xuất ra là nhiều nhất, còn thực phẩm bằng 0. Tại phương án F toàn bộ nguồn lực chỉ tập trung sản xuất lương thực và thực phẩm bằng 5 là nhiều nhất còn quần áo bằng không. Dọc theo đường cong từ phương án A đến phương án F thì quần áo giảm đi và lương thực tăng lên.

Phương án sản xuất A, B, C, D, E, F là những phương án có hiệu quả vì sử dụng hết nguồn lực, và tại đó muốn tăng một đơn vị sản phẩm đầu ra là quần áo thì phải cắt giảm đi những đơn vị sản phẩm đầu ra là lương thực. Phương án M là phương án sản xuất không có hiệu quả vì chưa sử dụng hết nguồn lực và tại M muốn tăng quần áo thì không cần phải cắt giảm lương thực vì còn nguồn lực. Phương án N là phương án không thể đạt được của nền kinh tế trong hiện tại vì xã hội không đủ nguồn lực.

Vậy đường giới hạn khả năng sản xuất là một đường biểu diễn tập hợp tất cả các phương án sản xuất có hiệu quả; phương án sản xuất có hiệu quả là phương án mà tại đó muốn tăng một đơn vị sản phẩm đầu ra nào dó thì buộc phải cắt giảm đi những đơn vị sản phẩm đầu ra khác. Trong một khoảng thời gian nhất định, mỗi một nền kinh tế có một đường giới hạn khả năng sản xuất. Khi các yếu tố sản xuất thay đổi thì đường giới hạn khả năng sản xuất cũng thay đổi theo. Nếu nguồn lực được mở rộng thì đường giới hạn khả năng sản xuất dịch chuyển sang bên phải, khi nguồn lực sản xuất bị thu hẹp lại thì đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ dịch chuyển về phía bên trái.

c. Chi phí cơ hội

Trong một giới hạn nguồn lực, tại một thời điểm có thể có nhiều phương án để


lựa chọn đó là các cơ hội có thể có. Khi chúng ta lựa chọn một phương án và tiến hành thực hiện theo phương án đó thì sẽ có các phương án khác, cơ hội khác bị bỏ qua. Trong các cơ hội bị bỏ qua cơ hội nào mang lại thu nhập lớn nhất, cơ hội đó chính là chi phí cơ hội của phương án đã lựa chọn. Vậy chi phí cơ hội là chi phí lớn nhất của các phương án bị bỏ lỡ.

Ví dụ: một người có lượng tiền là 100 triệu đồng, người này có các cơ hội sử dụng số tiền này là: Phương án 1: tiết kiệm để ở gia đình và thu nhập tăng thêm bằng 0; phương án 2: gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng, thu nhập tăng thêm 6 triệu đồng; phương án 3: sử dụng tiền để mua trái phiếu, thu nhập trái phiếu là 8 triệu đồng; phương án 4: góp vốn kinh doanh dự kiến cuối năm thu được 10 triệu đồng lợi nhuận. Người này chọn phương án 2 là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng, vậy các phương án bị bỏ qua là phương án 1, 3, 4. Chi phí cơ hội của việc lựa chọn phương án 2 là phương án 4 với chi phí là 10 triệu đồng.

1.1.6.2. Quy luật lợi ích cận biên giảm dần và quy luật chi phí cận biên tăng dần

- Quy luật lợi ích cận biên giảm dần được phát biểu như sau: số lượng sản phẩm đầu ra có thêm sẽ ngày càng giảm nếu liên tiếp bỏ thêm từng đơn vị yếu tố đầu vào biến đổi nào đó với các yếu tố đầu vào khác chưa thay đổi.

- Quy luật chi phí cận biên tăng dần được phát biểu như sau: để có thêm một số bằng nhau về một mặt hàng nào đó thì xã hội phải hi sinh ngày càng nhiều số lượng mặt hàng khác.

1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KINH TẾ VĨ MÔ CƠ BẢN

1.2.1. Tổng sản lượng của nền kinh tế

Nhìn chung các nhà kinh tế đánh giá hoạt động kinh tế vĩ mô bằng cách nhìn vào một vài biến số trọng yếu, trong đó biến số quan trọng nhất là tổng sản phẩm quốc nội (GDP). GDP là thước đo theo giá trị thị trường của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất tại một nước trong một năm. Có hai cách tính toán GDP: GDP danh nghĩa được xác định theo giá hiện hành và GDP thực tế được xác định theo giá cố định hay giá gốc. Vì giá không thay đổi nên GDP thực tế biến động từ năm này sang năm khác chỉ do sự thay đổi của lượng hàng. Nên khi muốn biết GDP của một quốc gia tăng hoặc giảm qua thời gian, người ta so sánh GDP thực tế giữa các năm.

Sự biến động của GDP thực tế là một thước đo hiện có tốt nhất về qui mô và tăng trưởng của mức sản lượng bởi vì GDP thực tế không chịu ảnh hưởng của sự biến động giá cả, nó được xem như mạch đập được giám sát chặt chẽ của nền kinh tế quốc dân. Khi các nhà kinh tế nói về tăng trưởng của nền kinh tế, họ phản ánh tốc độ tăng trưởng


bằng tỷ lệ phần trăm thay đổi của GDP thực tế từ thời kỳ này sang thời kỳ khác.

Mặc dù tốc độ tăng trưởng thường mang giá trị dương trong dài hạn, nhưng sự tăng trưởng này có thể không ổn định giữa các năm. Trên thực tế GDP có thể giảm trong một số trường hợp. Những biến động ngắn hạn của GDP được gọi là chu kỳ kinh doanh. Hiểu biết về chu kỳ kinh doanh là một mục tiêu chính của kinh tế vĩ mô. Tại sao các chu kỳ kinh doanh lại xuất hiện? Các lực lượng kinh tế nào lại gây ra sự suy giảm tạm thời trong mức sản xuất, các lực lượng nào dẫn đến khôi phục kinh tế? Liệu các chính sách của Chính phủ có thể sử dụng để làm dịu bớt hay triệt tiêu những biến động ngắn hạn trong nền kinh tế hay không. Đây là vấn đề lớn đã được đưa ra và ít nhất đã được giải đáp một phần bởi kinh tế vĩ mô hiện đại.

1.2.2. Thất nghiệp

Trong dân số có một bộ phận được gọi là lực lượng lao động bao gồm những người đang làm việc và những người thất nghiệp. Mục tiêu quan trọng tiếp theo của kinh tế vĩ mô là giải quyết việc làm nhiều đồng nghĩa với thất nghiệp thấp. Tỷ lệ thất nghiệp đo lường số người không có việc làm và đang tích cực tìm việc tính theo tỷ lệ phần trăm so với lực lượng lao động.

Biến động ngắn hạn của tỷ lệ thất nghiệp liên quan đến những dao động theo chu kỳ kinh doanh. Những thời kỳ sản lượng giảm thường đi kèm với tăng thất nghiệp và ngược lại.

1.2.3. Lạm phát

Biến số then chốt thứ ba mà các nhà kinh tế quan tâm đó là lạm phát. Lạm phát là tình trạng mức giá trung bình (mức giá chung) của nền kinh tế tăng lên trong một khoảng thời gian nhất định.

Các nhà kinh tế đo lường lạm phát bằng tỷ lệ lạm phát. Tỷ lệ lạm phát phản ánh phần trăm tăng thêm hay giảm bớt của giá cả ở một thời điểm nào đó so với thời điểm trước (hay tỷ lệ phần trăm thay đổi của chỉ số giá cả - thường là chỉ số CPI). Chỉ số giá cả là tỷ lệ so sánh giữa số tiền phải trả để mua một giỏ hàng hoá trong một năm hoặc một thời kỳ và số tiền phải trả để mua giỏ hàng hoá đó vào năm gốc hoặc thời kỳ gốc.

Trong thời kỳ nền kinh tế có lạm phát, tiền tệ bị mất giá. Giá trị của tiền tệ giảm dần theo cùng một tỷ lệ với tỷ lệ lạm phát (tỷ lệ lạm phát cao thì tiền mất giá nhanh, tỷ lệ lạm phát thấp thì tiền mất giá chậm hơn). Lạm phát có tác động làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Nước nào có tỷ lệ lạm phát cao thì đồng tiền nước đó sẽ bị giảm giá so với đồng tiền nước khác.


1.2.4. Cán cân thương mại

Vấn đề quan trọng thứ tư mà kinh tế vĩ mô xem xét là cán cân thương mại. Tầm quan trọng của cán cân thương mại là gì và điều gì qui định sự biến động của nó trong ngắn hạn và dài hạn? Nhìn chung, khi một nước nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn từ thế giới bên ngoài so với xuất khẩu, nước đó cần phải trang trải cho phần nhập khẩu dôi ra đó bằng cách vay tiền nước ngoài, hoặc giảm tài sản quốc tế. Ngược lại, khi một nước có xuất khẩu ròng, thì nước đó sẽ tích tụ tài sản của thế giới bên ngoài. Như vậy, nghiên cứu của chúng ta về mất cân bằng thương mại liên quan chặt với dòng chu chuyển vốn quốc tế.

1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH TẾ VĨ MÔ

1.3.1. Đối tượng

Kinh tế vĩ mô nghiên cứu các biến số then chốt của nền kinh tế như: tổng sản lượng của nền kinh tế, mức giá chung, việc làm và thất nghiệp, cán cân thương mại. Kinh tế vĩ mô tìm cách đưa ra lời giải đáp cho các câu hỏi quan trọng như điều gì quyết định các biến số kinh tế trên và tại sao chúng lại thay đổi theo thời gian.

Kinh tế vĩ mô có mối quan tâm đặc biệt đối với chính sách. Rất nhiều phân tích trong kinh tế vĩ mô sẽ tập trung xem xét xem các chính sách của Chính phủ ảnh hưởng tới các biến số kinh tế vĩ mô như thế nào. Ví dụ: chính sách đó có thể tác động đến sản lượng và việc làm của nền kinh tế đến mức nào? Lạm phát xảy ra do các chính sách không phù hợp của Chính phủ đến mức nào? Những chính sách nào sẽ là tối ưu nhằm làm cho các biến số kinh tế vĩ mô vận động như mong muốn của Chính phủ? Có nên nỗ lực để đạt được cân bằng thương mại hay không?

1.3.2. Phương pháp nghiên cứu

Có thể khái quát phương pháp luận nghiên cứu của kinh tế học thông qua 4 giai đoạn như sau:

1.3.2.1. Khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế các nhà kinh tế thường dùng phương pháp quan sát.

Vì các hiện tượng kinh tế hết sức phức tạp, thường xuyên biến động, chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, các quan hệ kinh tế rất vô hình, mà chúng ta chỉ có thể suy đoán thông qua các biểu hiện bên ngoài thị trường của nó

Ví dụ: Muốn nghiên cứu về lạm phát của thời kỳ nào đó thì phải quan sát sự thay đổi giá cả của tất cả các hàng hoá, dịch vụ đang được giao dịch trên thị trường của thời kỳ đó.


1.3.2.2. Thu thập các số liệu phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu

Ví dụ: Muốn biết lạm phát hiện nay là bao nhiêu, đã phải là nguy cơ chưa thì cần phải có số liệu, căn cứ ban đầu để phân tích. Số liệu để tiến hành nghiên cứu lạm phát là số liệu về nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái, mức giá cả chung của các hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế, ...

1.3.2.3. Tiến hành phân tích với các phương pháp phân tích thích hợp

Mỗi một sự kiện kinh tế, mỗi một chỉ tiêu kinh tế sẽ có cách phân tích khác nhau, có thể dùng phương pháp phân tích này hay phương pháp phân tích khác, h oặc kết hợp của một số phương pháp phân tích. Kinh tế học ngoài những phương pháp của các khoa học kinh tế nói chung, thì kinh tế học sử dụng các phương pháp phân tích đặc thù. Đó là những phương pháp trừu tượng hoá, bóc tách các nhân tố không định nghiên cứu (cố định các nhân tố này) để xem xét các mối quan hệ kinh tế giữa các biến số cơ bản liên quan trực tiếp tới sự kiện nghiên cứu. Ví dụ: phương pháp thống kê, mô hình toán, kinh tế lượng, phương pháp cân bằng tổng thể và cân bằng bộ phận,...

1.3.2.4. Rút ra các kết luận

Đối chiếu với thực tế, phát hiện ra điểm bất hợp lý, đề ra các giả thiết mới rồi lại kiểm nghiệm bằng thực tế. Quá trình này lặp đi lắp lại đến khi nào kết quả rút ra sát thực với thực tế, khi đó quá trình nghiên cứu mới kết thúc.

1.4. MỤC TIÊU VÀ CÔNG CỤ ĐIỀU TIẾT KINH TẾ VĨ MÔ

Kinh tế vĩ mô có tầm quan trọng đặc biệt vì nhiều lý do: sự thành công hay thất bại của nền kinh tế mỗi quốc gia phụ thuộc rất lớn vào các hoạt động kinh tế vĩ mô; Chính phủ có thể tác động đến hoạt động của nền kinh tế bằng các chính sách điều tiết vĩ mô; các chính sách kinh tế vĩ mô chiếm vị trí nổi bật trong các chương trình, thậm chí là trong cương lĩnh của những đảng phái trong xã hội,…

1.4.1. Mục tiêu

Thành tựu kinh tế vĩ mô của một đất nước thường được đánh giá theo 3 dấu hiệu chủ yếu: ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội. Sự ổn định kinh tế là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế cấp bách như lạm phát, suy thoái, thất nghiệp trong thời kỳ ngắn hạn. Tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải giải quyết tốt những vấn đề dài hạn hơn, có liên quan đến việc phát triển kinh tế. Công bằng trong phân phối vừa là vấn đề xã hội, vừa là vấn đề kinh tế.

Để có thể đạt được những điều này, các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới các mục tiêu cụ thể là: sản lượng, công ăn việc làm, ổn định giá cả và kinh tế đối ngoại.


1.4.1.1 Mục tiêu định tính

Trên góc độ điều hành kinh tế vĩ mô, có hai mục tiêu mang tính định tính cơ bản được hầu hết Chính phủ các nước quan tâm đó là mục tiêu ổn định và tăng trưởng.

a. Mục tiêu ổn định

Ổn định kinh tế là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế cấp bách, làm

giảm bớt dao động của chu kỳ kinh doanh để tránh lạm phát cao và thất nghiệp nhiều.

Nhược điểm lớn nhất của nền kinh tế thị trường là tự động tạo ra các chu kỳ kinh doanh (sản lượng thực tế dao động lên xuống xoay quanh trục sản lượng tiềm năng), nền kinh tế luôn có xu hướng không ổn định. Khi nền kinh tế ở trạng thái phát triển nóng (sản lượng thực tế cao hơn sản lượng tiềm năng) thì đi kèm theo nó là mức thất nghiệp thấp, lạm phát cao và ngược lại, khi nền kinh tế ở trạng thái suy thoái (sản lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng) thì mức thất nghiệp cao và lạm phát thấp. Khoảng cách giữa sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng được gọi là chênh lệch sản lượng. Chênh lệch này càng lớn thì hai thái cực thất nghiệp và lạm phát cũng càng nghiêm trọng. Vì vậy, để đạt được mục tiêu ổn định cần phải phấn đấu sao cho sản lượng được duy trì ở mức sản lượng tiềm năng để tránh được tình trạng lạm phát cao và thất nghiệp nhiều.

b. Mục tiêu tăng trưởng

Để thực hiện mục tiêu này nghĩa là tốc độ tăng sản lượng của nền kinh tế đạt ở mức cao nhất. Một nền kinh tế phát triển ổn định chưa chắc đã có được một tốc độ tăng trưởng nhanh. Một nước có tốc độ tăng trưởng chậm thì có nguy cơ tụt hậu và nếu có tốc độ tăng trưởng nhanh thì có thể có khả năng đuổi kịp và vượt các nước đi trước. Vì vậy, mục tiêu tăng trưởng là mục tiêu thứ hai sau mục tiêu ổn định.

Vấn đề đặt ra là muốn có được tăng trưởng thì cần phải có chính sách thúc đẩy quá trình tạo vốn, tăng năng suất lao động nhằm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế và tăng nhanh sản lượng tiềm năng.

*So sánh hai mục tiêu tăng trưởng và ổn định

Trong ngắn hạn, với một mức sản lượng tiềm năng cho trước, nền kinh tế cần phải giảm bớt sự chênh lệch giữa sản lượng thực tế so với sản lượng tiềm năng. Nói cách khác, cần phải hạn chế đến mức thấp nhất dao động của chu kỳ kinh doanh thì ổn định là mục tiêu được đặt lên hàng đầu.

Trong khi đó, để cho đất nước tiến kịp với các quốc gia khác đòi hỏi sản lượng tiềm năng phải tăng nhanh, từ đó thúc đẩy sản lượng thực tế tăng theo. Vì vậy, tăng trưởng là mục tiêu được đặc biệt quan tâm của nền kinh tế trong dài hạn.


Tóm lại, theo tiêu thức thời gian, mục tiêu ổn định thường xét trong ngắn hạn còn mục tiêu tăng trưởng được đặt ra trong dài hạn.

1.4.1.2 Mục tiêu định lượng

Mục tiêu kinh tế vĩ mô cũng có thể được diễn đạt thông qua các chỉ tiêu mang tính định lượng. Khi đo lường mức độ thành công của một nền kinh tế, các nhà kinh tế thường căn cứ vào một số chỉ tiêu kinh tế trọng yếu sau:

a. Mục tiêu sản lượng

- Sản lượng tiềm năng hay mức sản lượng tự nhiên (Y*) của nền kinh tế là mức sản lượng tương ứng với các nguồn lực (vốn tài sản, lao động, đất đai ...) mà nền kinh tế có được.

- Sản lượng thực tế (Y) là sản lượng được sản xuất ra trên cơ sở sử dụng thực tế các nguồn lực đã có.

Khi các nguồn lực không được sử dụng hết, Y < Y*, nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, tỷ lệ thất nghiệp cao.

Ngược lại, khi Y > Y* nền kinh tế rơi vào tình trạng quá nóng, lạm phát có nguy cơ bùng nổ.

Mục tiêu cuối cùng của hoạt động kinh tế là cung cấp hàng hóa, dịch vụ mà nhân dân mong muốn. Ngày nay, thước đo cuối cùng để đánh giá thành công của một quốc gia là khả năng tạo ra mức sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức sản lượng tiềm năng của đất nước.

Sản lượng tiềm năng Y*

Nóng

Sản lượng thực tế Y

Suy thoái

Y


Cân bằng


Năm

Hình 1.2. Sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng

b. Mục tiêu công ăn việc làm


Một trong những thành tựu kinh tế vĩ mô mà bất kỳ quốc gia nào cũng quan tâm là đạt được tỷ lệ người lao động có công ăn việc làm cao hay thể hiện thông qua tỷ lệ


thất nghiệp thấp. Trong thực tế cuộc sống, ai cũng muốn có thể tìm được việc làm với mức thu nhập cao để đảm bảo cuộc sống cho mình và gia đình.

Thực tế ngày nay cho thấy mục tiêu đảm bảo việc làm đầy đủ cho tất cả người lao động là rất khó thực hiện vì tỷ lệ lao động có việc làm không chỉ đơn thuần là mục tiêu kinh tế. Vấn đề việc làm còn là một vấn đề xã hội hết sức nóng bỏng vì hậu quả của việc thất nghiệp là hàng loạt những vấn đề về tâm lý, đạo đức xã hội,…

c. Mục tiêu ổn định giá cả

Mục tiêu ổn định giá cả trong điều kiện thị trường tự do khác hơn so với các mục tiêu liên quan đến sản lượng và công ăn việc làm. Ổn định giá cả nghĩa là làm sao cho giá cả không tăng cũng không giảm quá nhanh. Nó được thể hiện thông qua tỷ lệ lạm phát và mục tiêu là tỷ lệ này gần như bằng không.

Trong điều kiện thị trường tự do, không thể áp đặt một tập hợp giá cả hoàn toàn cứng nhắc bởi vì điều đó làm thay đổi cấu trúc thị trường và làm cho việc phân bổ các đầu vào và các hàng hóa, dịch vụ trở nên không hiệu quả. Như vậy, việc tìm kiếm một phương tiện quy định mức giá cả linh hoạt tất yếu phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát nhỏ. Có thể coi đó là cách tốt nhất cho phép hệ thống giá cả hoạt động một cách có hiệu quả nhất.

Nói chung, hầu hết các quốc gia đều tìm kiếm một cách dung hòa giữa việc định giá theo thị trường tự do với xu hướng tăng lên dần của giá cả, coi đó là phương thức tốt nhất để hệ thống giá hoạt động một cách có hiệu quả.

d. Mục tiêu kinh tế đối ngoại

Trong xu hướng của nền kinh tế thế giới hiện nay, mọi quốc gia đều xây dựng chiến lược phát triển kinh tế theo hướng mở cửa với thế giới bên ngoài. Các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; cho vay hoặc vay tiền của người nước ngoài, sử dụng những phát minh, sáng chế của nước ngoài hoặc truyền bá những phát minh, sáng chế của nước mình cho phía nước ngoài,… đang trở thành những nội dung quan trọng liên quan đến quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia.

Để đạt được thành tựu to lớn trong quan hệ kinh tế đối ngoại thì mọi quốc gia đều phải phấn đấu nhằm đạt các mục tiêu:

- Ổn định tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ với các ngoại tệ của các quốc gia là đối tác kinh tế của mình.

- Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, thông qua việc cân bằng cán cân thương mại quốc tế và quan hệ tín dụng quốc tế.

Những mất cân đối về quan hệ kinh tế đối ngoại sẽ gây tác hại lớn về kinh tế và chính trị cho đất nước. Vì vậy, giảm mức độ mất cân đối kinh tế đối ngoại là mối quan tâm chủ yếu của các nhà hoạch định chính sách kinh tế.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 03/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí