theo. Để có thể tiến hành quyết toán thu, chi, các đơn vị phải hoàn tất hệ thống báo cáo tài chính và báo cáo quyết toán ngân sách.
Nội dung chính của hệ thống báo cáo tài chính và báo cáo quyết toán là trình bày một cách tổng quát, toàn diện về tình hình thu, chi và cân đối ngân sách; tình hình tiếp nhận, huy động, sử dụng các nguồn tài chính và sự vận động của các tài sản sau một kỳ kế toán. Toàn bộ những thông tin trình bày trên hệ thống báo cáo này được xây dựng trên cơ sở thông tin do kế toán cung cấp. Do đó, hệ thống báo cáo có trung thực, hợp lý hay không phụ thuộc phần lớn vào việc tổ chức hạch toán kế toán của đơn vị như thế nào để cung cấp thông tin chính xác, kịp thời cho việc lập báo cáo.
Có thể khái quát quyết toán thu, chi tại đơn vị sự nghiệp theo sơ đồ dưới đây:
Sơ đồ 1.1: Quyết toán thu, chi tại đơn vị sự nghiệp
Thông báo (2a) kết quả xét
duyệt
Đơn vị dự toán cấp trên
1. Xét duyệt dự toán
2. Tổng hợp, lập báo cáo quyết toán năm của đơn vị mình và đơn vị trực thuộc
Đơn vị dự toán cấp dưới
- Lập báo cáo kế toán quý
- Báo cáo quyết toán năm
(1) Gửi
Gửi thông báo kết quả xét duyệt dự toán (4)
Gửi (2b)
Đơn vị dự toán cấp 1
Cơ quan tài chính
Thẩm định
Thông báo kết quả thẩm định (3)
Tóm lại, ba khâu công việc trong quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp đều hết sức quan trọng. Nếu như dự toán là phương án kết hợp các nguồn lực trong dự kiến để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra và là cơ sở để tổ chức chấp hành thì quyết toán là thước đo hiệu quả của công tác lập dự toán. Qua đó có thể thấy ba khâu công việc trong quản lý tài chính có quan hệ mật thiết với nhau và có ảnh hưởng trực
tiếp đến kết quả sử dụng các nguồn lực nhằm hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao. Muốn vậy các đơn vị sự nghiệp phải có sự chủ động, linh hoạt trong hoạt động đồng thời với việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực. Điều này một mặt phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, chức năng, nhiệm vụ được giao, mặt khác phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, phương thức hoạt động, cách thức tổ chức công tác kế toán khoa học…
1.2. Vai trò và nguyên tắc kế toán trong đơn vị sự nghiệp
1.2.1. Vai trò và nhiệm vụ kế toán trong đơn vị sự nghiệp
Theo Luật Kế toán (2003), kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động.
Kế toán trong ĐVSN là một bộ phận cấu thành của hệ thống kế toán Nhà nước, có nhiệm vụ tổ chức hệ thống thông tin và kiểm tra về tình hình tiếp nhận và sử dụng, quyết toán kinh phí, tình hình quản lý và sử dụng các loại vật tư, tài sản công; tình hình chấp hành các dự toán thu, chi và thực hiện các tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước ở các ĐVSN.
Như vậy, vai trò của kế toán trong ĐVSN được thể hiện qua hai chức năng chính mà kế toán đảm nhận, đó là:
- Chức năng thông tin kinh tế tài chính. Thông qua việc thu thập, phân loại, tính toán, ghi chép, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh để kế toán cung cấp thông tin kinh tế tài chính của một đơn vị cho các đối tượng sử dụng. Chức năng này được thực hiện bởi Kế toán tài chính tại ĐVSN.
- Chức năng kiểm tra, kiểm soát, đánh giá hoạt động và ra quyết định đối với đơn vị. Chức năng này được thực hiện bởi Kế toán quản trị tại ĐVSN.
Để thực sự là công cụ sắc bén, có hiệu lực trong công tác quản lý kinh tế tài chính, kế toán trong các đơn vị sự nghiệp phải thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Ghi chép và phản ánh một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ và có hệ thống tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn, quá trình hình thành kinh phí và sử dụng nguồn kinh phí, tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại đơn vị.
- Thực hiện kiểm tra, kiểm soát tình hình chấp hành dự toán thu, chi; tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế tài chính và các tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước, kiểm tra việc quản lý, sử dụng các loại vật tư tài sản ở đơn vị; kiểm tra việc chấp hành kỷ luật thu, nộp ngân sách, chấp hành kỷ luật thanh toán và chế độ chính sách của Nhà nước.
- Theo dõi và kiểm soát tình hình phân phối kinh phí cho các đơn vị dự toán cấp dưới, tình hình chấp hành dự toán thu, chi và quyết toán của các đơn vị cấp dưới.
- Lập và nộp đúng hạn các báo cáo kế toán cho các cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính theo quy định, cung cấp thông tin và tài liệu cần thiết phục vụ cho việc xây dựng dự toán, xây dựng các định mức chi tiêu; phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí ở đơn vị.
1.2.2. Cơ sở kế toán trong đơn vị sự nghiệp và chuẩn mực kế toán công quốc tế
1.2.2.1. Cơ sở kế toán và lựa chọn cơ sở kế toán trong ĐVSN
a) Cơ sở kế toán
Kế toán trên cơ sở dồn tích
Kế toán trên cơ sở dồn tích (hay kế toán dồn tích) đánh giá, phản ánh tài sản, nguồn vốn, doanh thu, chi phí, kết quả hoạt động trên cơ sở phát sinh quyền và nghĩa vụ tài chính, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu, chi tiền.
Kế toán dồn tích cho phép xác định, đánh giá kết quả hoạt động từng kỳ kế toán, không nhất thiết phải chờ đến khi kết thúc công việc; phản ánh đầy đủ thực trạng và biến động tài sản, nguồn vốn, tình hình tài chính của đơn vị. Những thông tin về tài sản, tình hình thanh toán luôn sẵn có theo những tiêu chí chuẩn hóa, có hệ thống. Nhờ đó, nhà
quản lý có thể đánh giá được các hoạt động, dự tính được ảnh hưởng của những hoạt động trong tương lai; theo dõi, kiểm soát được những thay đổi trong hoạt động của đơn vị.
Tuy nhiên, kế toán dồn tích còn mang tính chủ quan trong việc phân tách thu nhập, chi phí giữa các kỳ kế toán (như khấu hao tài sản, tính giá hàng tồn kho, đánh giá sản phẩm dở dang…) nên độ tin cậy của kết quả hoạt động không cao, nhà quản lý hoặc nhân viên kế toán có thể điều chỉnh doanh thu, chi phí thông qua các ước tính và phép phân bổ. Do đó, khi thực hiện kế toán theo cơ sở dồn tích, kế toán phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán có liên quan, đặc biệt là nguyên tắc nhất quán và nguyên tắc phù hợp. Ngoài ra, do sự khác biệt giữa lợi nhuận và lượng tiền sinh ra trong kỳ nên Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động chưa thể đánh giá chính xác kết quả hoạt động của ĐVSN.
Do các đặc điểm nêu trên, kế toán dồn tích thường áp dụng cho các ĐVSN có thu, có hoạt động SXKD phát triển, nhất là các đơn vị được giao quyền tự chủ toàn bộ. Đối với các đơn vị có phát sinh hoạt động mua, bán chịu thì áp dụng kế toán dồn tích thực sự rất cần thiết nhằm đảm bảo nguyên tắc phù hợp giữa chi phí, doanh thu phát sinh trong kỳ kế toán.
Kế toán trên cơ sở tiền
Kế toán trên cơ sở tiền (hay kế toán tiền mặt) dựa trên nguyên tắc ghi chép mọi biến động về tiền của một đơn vị, loại trừ tất cả các biến động khác. Các khoản thu, chi hay biến động về tài sản của đơn vị chỉ được ghi nhận vào thời điểm thu được tiền hoặc chi trả thực tế mà không tính đến thời điểm phát sinh biến động về tài sản. Doanh thu chỉ được ghi nhận khi thực sự thu được tiền, chi phí chỉ được ghi nhận khi thực sự chi tiền; kết quả hoạt động không xác định theo kỳ nhất định mà theo vụ việc hoạt động hoàn thành trên cơ sở so sánh chênh lệch tiền thu vào và tiền chi ra dựa trên cơ sở luồng tiền của đơn vị.
Kế toán tiền mặt đơn giản trong kỹ thuật kế toán, dễ hiểu, thông tin về dòng tiền xác thực, cho phép xác định chính xác khả năng thanh
toán của đơn vị. Song kế toán tiền mặt cũng bộc lộ một số hạn chế như không phản ánh bao quát về tình hình tài chính của đơn vị, không thể hiện được mối quan hệ phù hợp giữa doanh thu ghi nhận và chi phí phát sinh. Vì thế người sử dụng khó có thể đánh giá chính xác thực trạng tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị; nên kế toán tiền mặt ít được sử dụng hơn so với kế toán dồn tích và thường được áp dụng đối với đơn vị hành chính Nhà nước hoặc các ĐVSN có nguồn thu thấp, có hoạt động SXKD quy mô nhỏ hoạt động chủ yếu dựa trên các luồng tiền vào, ra, đặc biệt là các đơn vị thực hiện kế toán không liên quan tới hàng tồn kho.
b) Lựa chọn cơ sở kế toán đối với đơn vị sự nghiệp
Do có thể thực hiện song hành cả hai loại hoạt động: Hoạt động sự nghiệp và hoạt động sản xuất kinh doanh, nên kế toán tại các ĐVSN phải lựa chọn được cơ sở kế toán phù hợp.
Đối với hoạt động thụ hưởng, nguồn kinh phí hoạt động bao gồm kinh phí thường xuyên và không thường xuyên theo nguyên tắc các nguồn kinh phí này thuộc NSNN. Để thực hiện các nghiệp vụ tiếp nhận, sử dụng kinh phí NSNN cấp, các ĐVSN vận dụng kế toán tiền mặt.
Mặt khác, theo xu hướng tăng dần tính tự chủ cho các ĐVSN, khuyến khích các đơn vị chuyển đổi sang hoạt động theo loại hình doanh nghiệp, đặc biệt trong điều kiện quản lý theo kết quả đầu ra đòi hỏi phải xác định đầy đủ chi phí đầu vào để có cơ sở xác định hiệu quả quản lý tài chính, kế toán ĐVSN có thể lựa chọn áp dụng kế toán dồn tích, cuối kỳ lập BCTC có thể điều chỉnh trên cơ sở kế toán tiền mặt.
Như vậy, tại các ĐVSN kế toán có thể kết hợp kế toán tiền mặt với kế toán dồn tích để phản ánh các hoạt động kinh tế phát sinh một cách phù hợp với bản chất của giao dịch. Kế toán tiền mặt phản ánh các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ Nhà nước giao và được cấp kinh phí hoạt động hàng năm. Kế toán dồn tích phản ánh các hoạt động SXKD và cung ứng dịch vụ; các hoạt động theo chức năng và nhiệm vụ Nhà nước giao và được cấp kinh phí ban đầu, đơn vị có trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn kinh phí đó.
1.2.2.2. Chuẩn mực kế toán công quốc tế và xu hướng lựa chọn cơ sở kế toán trong đơn vị sự nghiệp
Cũng như chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) được Liên đoàn kế toán quốc tế ban hành và được áp dụng tại nhiều quốc gia trên thế giới, chuẩn mực kế toán công quốc tế (International Public Sector Accounting Standards - IPSAS) cũng được ban hành làm cơ sở pháp lý cho các đơn vị lĩnh vực công áp dụng.
IPSAS được công bố nhằm trợ giúp cho các đơn vị trong lĩnh vực công áp dụng và thực hiện trong công tác kế toán và lập báo báo tài chính (BCTC) nhằm nâng cao chất lượng và tính minh bạch trong lập BCTC bằng việc cung cấp thông tin tốt hơn cho các nhà quản lý trong việc đưa ra các quyết định cụ thể.
IPSAS được ban hành là một bước đi tích cực trong việc thống nhất hệ thống chuẩn mực kế toán trong lĩnh vực công trên toàn thế giới. Qua đó có sự thống nhất về cách ghi nhận, đo lường và trình bày các thông tin trên BCTC của các đơn vị trong lĩnh vực công. Theo IPSAS, các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực công hàng năm phải lập BCTC là các đơn vị kinh tế có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước (NSNN). Các đơn vị kinh tế thuộc lĩnh vực công phải lập BCTC theo IPSAS là các đơn vị hoạt động theo nguyên tắc tự cân đối thu, chi. Chênh lệch giữa các khoản thu (gồm cả kinh phí NSNN cấp) trừ đi các khoản chi đã sử dụng trong quá trình hoạt động là thặng dư thuần hoặc thâm hụt thuần của đơn vị trong kỳ kế toán. Theo IPSAS, các đơn vị thuộc lĩnh vực công khi kết thúc năm tài chính phải lập 4 báo cáo bao gồm: Bảng cân đối kế toán (phản ánh tình hình tài chính); Báo cáo kết quả hoạt động (phản ánh quá trình hoạt động và xác định thặng dư hoặc thâm hụt thuần); Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh BCTC.
Liên đoàn kế toán quốc tế ban hành IPSAS dựa trên cơ sở kế toán tiền mặt và cơ sở kế toán dồn tích. Mục đích của việc ban hành IPSAS trên cơ sở kế toán dồn tích là để phù hợp với chuẩn mực BCTC quốc tế (IFRS) và thích ứng với điều kiện của các đơn vị trong lĩnh vực công; và cũng để giải quyết các vấn đề về lập BCTC trong
lĩnh vực công mà không được quy định bởi IFRS hoặc IFRS chưa đề cập đến. Dựa trên logic như vậy, nhiều chuẩn mực trong IPSAS được thiết kế dựa trên chuẩn mực BCTC quốc tế.
Liên đoàn kế toán quốc tế cũng ban hành IPSAS trên cơ sở tiền mặt cho các đơn vị kế toán công và yêu cầu các đơn vị này phải trình bày các thông tin bắt buộc và những phần khuyến khích trình bày. Tuy nhiên, Liên đoàn kế toán quốc tế khuyến khích các đơn vị trong lĩnh vực công chuyển đổi kế toán trên cơ sở tiền mặt sang kế toán trên cơ sở dồn tích. Do vậy, các đơn vị trong lĩnh vực công áp dụng kế toán trên cơ sở dồn tích được tạo mọi điều kiện thuận lợi để đáp ứng với yêu cầu của chuẩn mực. Các đơn vị này có thể lựa chọn bất cứ khi nào để áp dụng IPSAS trên cơ sở dồn tích và khi đã lựa chọn áp dụng thì phải báo cáo đầy đủ theo quy định của chuẩn mực. Như vậy, trong tương lai sẽ có sự chuyển đổi của các đơn vị trong lĩnh vực công áp dụng IPSAS trên cơ sở tiền mặt sang áp dụng IPSAS trên cơ sở kế toán dồn tích.
Chuẩn mực kế toán công quốc tế (IPSAS) bao gồm các chuẩn mực sau:
Bảng 1.3: Hệ thống chuẩn mực kế toán công quốc tế (IPSAS)
Tên gọi | |
IPSAS 1 | Trình bày BCTC |
IPSAS 2 | Báo cáo lưu chuyển tiền tệ |
IPSAS 3 | Chênh lệch thu, chi, các sai sót cơ bản và sự thay đổi chính sách kế toán |
IPSAS 4 | Ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái |
IPSAS 5 | Chi phí đi vay |
IPSAS 6 | Báo cáo tài chính hợp nhất, kế toán các khoản đầu tư vào đơn vị bị kiểm soát |
IPSAS 7 | Kế toán các khoản đầu tư vào công ty liên kết |
Có thể bạn quan tâm!
- Kế toán đơn vị sự nghiệp Phần 1 - 2
- Đặc Điểm Tổ Chức Quản Lý Của Đơn Vị Sự Nghiệp
- Đặc Điểm Quản Lý Tài Chính Của Đơn Vị Sự Nghiệp
- Nguyên Tắc Và Nội Dung Tổ Chức Công Tác Kế Toán Trong Các Đơn Vị Sự Nghiệp
- Tổ Chức Hệ Thống Tài Khoản Kế Toán
- Quốc Hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2008),
Xem toàn bộ 158 trang tài liệu này.
Tên gọi | |
IPSAS 8 | Lập báo cáo tài chính về lợi ích từ hoạt động liên doanh |
IPSAS 9 | Doanh thu từ các giao dịch trao đổi |
IPSAS 10 | Lập báo cáo tài chính trong nền kinh tế siêu lạm phát |
IPSAS 11 | Hợp đồng xây dựng |
IPSAS 12 | Hàng tồn kho |
IPSAS 13 | Thuê tài sản |
IPSAS 14 | Các sự kiện sau ngày lập báo cáo |
IPSAS 15 | Công cụ tài chính: khai báo và trình bày |
IPSAS 16 | Bất động sản đầu tư |
IPSAS 17 | Tài sản, nhà cửa và thiết bị |
IPSAS 18 | Báo cáo bộ phận |
IPSAS 19 | Dự phòng, nợ phải trả và tài sản tiềm tàng |
IPSAS 20 | Thông tin về các bên liên quan |
IPSAS 21 | Giảm giá trị của các tài sản không tạo luồng tiền |
IPSAS 22 | Thuyết minh tài chính về lĩnh vực chính quyền trung ương |
IPSAS 23 | Thu nhập từ các nghiệp vụ phi trao đổi (thuế và chuyển nhượng) |
IPSAS 24 | Trình bày thông tin về ngân sách trên Báo cáo tài chính |
IPSAS 25 | Lợi ích người lao động |
IPSAS 26 | Giảm giá trị của các tài sản tạo tiền |
IPSAS 27 | Nông nghiệp |
IPSAS 28 | Công vụ tài chính: Trình bày |
IPSAS 29 | Công cụ tài chính: Ghi nhận và đo lường |
IPSAS 30 | Công cụ tài chính: Khai báo |
IPSAS 31 | Tài sản cố định vô hình |
IPSAS 32 | Hợp đồng chuyển nhượng dịch vụ: Người chuyển nhượng |