* Phân loại doanh thu theo lĩnh vực tạo ra doanh thu (theo bản chất kinh tế): Doanh thu được chia thành doanh thu hoạt động kinh doanh thông thường và doanh thu hoạt động tài chính, thu nhập khác.
Doanh thu hoạt động kinh doanh thông thường: Là toàn bộ số tiền phải thu phát sinh trong kỳ từ việc bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp thực hiện cung cấp dịch vụ công ích, doanh thu bao gồm cả các khoản trợ cấp của nhà nước cho doanh nghiệp khi thực hiện cung cấp dịch vụ theo nhiệm vụ nhà nước giao mà không thu đủ bù đắp chi.
Doanh thu từ hoạt động tài chính: Bao gồm các khoản thu phát sinh từ tiền bản quyền, cho các bên khác sử dụng tài sản của doanh nghiệp, tiền lãi từ việc cho vay vốn, lãi tiền gửi, lãi bán hàng trả chậm, trả góp, lãi cho thuê tài chính, chênh lệch lãi do bán ngoại tệ, chênh lệch tỷ giá ngoại tệ, chênh lệch lãi chuyển nhượng vốn và lợi nhuận được chia từ việc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp.
Thu nhập khác: Bao gồm các khoản thu từ việc thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, thu tiền bảo hiểm được bồi thường các khoản nợ phải trả nay mất chủ được ghi tăng thu nhập, thu tiền phạt khách hàng do vi phạm hợp đồng và các khoản thu khác.
* Phân loại doanh thu theo phương thức thanh toán: Theo cách phân loại này, doanh thu của doanh nghiệp được chia thành:
Doanh thu bán hàng thu tiền ngay
Doanh thu bán hàng người mua chưa thanh toán Doanh thu bán hàng trả góp
Doanh thu bán hàng đại lý (ký gửi)
Doanh thu chưa thực hiện (Doanh thu nhận trước).
Có thể bạn quan tâm!
- Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Khí Công nghiệp Long Biên - 1
- Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Khí Công nghiệp Long Biên - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Kế Toán Doanh Thu, Chi Phí Và Kết Quả Kinh Doanh Trong Doanh Nghiệp Thương Mại
- Chuẩn Mực Kế Toán Số 14 –Doanh Thu Và Thu Nhập Khác
- Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Khí Công nghiệp Long Biên - 6
- Trình Bày Thông Tin Trên Báo Cáo Tài Chính
Xem toàn bộ 152 trang tài liệu này.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp có các thông tin cần thiết để phân tích công nợ, có kế hoạch thu hồi nợ, lập dự phòng phải thu khó đòi
* Phân loại doanh thu theo đối tượng mua hàng: Theo cách phân loại này doanh thu của DN được chia thành: Doanh thu bánhàng ra ngoài (bao gồm doanh thu bán nội địa và doanh thu xuất khẩu) và doanh thu bán hàng nội bộ.
Cách phân loại này giúp cho các nhà quản trị DN biết được mức độ sinh lời của từng hoạt động theo đối tượng bán hàng từ đó có quyết định kinh doanh phù hợp.
* Phân loại doanh thu theo mối quan hệ doanh thu với chi phí và kết quả kinh doanh:Cách phân loại này doanh thu DN chia thành: Doanh thu hoà vốn, Doanh thu thua lỗ, doanh thu an toàn và có lãi. Cách phân loại này giúp cho các nhà quản trị xác định quy mô kinh doanh phù hợp, chiến lược kinh doanh của DN để đạt hiệu quả.
Doanh thu và chi phí liên quan đến cùng một giao dịch phải được ghi nhận đồng thời theo nguyên tắc phù hợp và năm tài chính.
Doanh thu được chi tiết theo từng loại doanh thu, doanh thu từng mặt hàng,... theo dõi chi tiết từng khoản giảm trừ doanh thu (chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại) để xác định doanh thu thuần của từng loại doanh thu, chi tiết từng mặt hàng, từ đó phục vụ cho cung cấp thông tin kế toán để quản trị doanh nghiệp và lập báo cáo tài chính.
1.2.3. Kết quả kinh doanh và phân loại kết quả kinh doanh
Khái niệm kết quả kinh doanh
Là kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp sau một thời kỳ nhất định và được xác định là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí của các hoạt động đó. Nếu doanh thu lớn hơn chi phí thì doanh nghiệp có lợi nhuận, nếu bằng hoặc nhỏ hơn chi phí thì doanh nghiệp hoà vốn hoặc lỗ.
Sau một thời kỳ hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp cần xác định kết quả kinh doanh để đánh giá hiệu quả hoạt động của đơn vị. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ là phần lợi ích mà doanh nghiệp nhận được hoặc tổn thất doanh nghiệp phải gánh chịu trong quá trình hoạt động kinh doanh được xác định bằng chênh lệch giữa doanh thu và chi phí tương ứng của doanh nghiệp trong kỳ. Kết quả kinh doanh là lãi nếu doanh thu lớn hơn chi phí và ngược lại, kết quả kinh doanh là lỗ nếu doanh thu nhỏ hơn chi phí. Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động ở những lĩnh vực khác nhau thì hoạt động chính tạo ra lợi nhuận cũng khác nhau. Kết quả hoạt động chính của doanh nghiệp tạo ra trong kỳ được gọi là kết quả kinh doanh thông thường. Kết quả kinh doanh là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả kinh doanh là mục tiêu kinh tế cơ bản, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, là động lực thúc đẩy các hoạt động của doanh nghiệp
Phân loại kết quả kinh doanh
Theo thông tư 200/2014/TT/BTC ban hành ngày 22/12/2014 của Bộ Tài chính thì kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp bao gồm: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả hoạt động tài chính và kết quả hoạt động khác.
Kết quả hoạt động kinh doanh: Là số chênh lệch giữa doanh thu thuần và trị giá vốn hàng bán (gồm cả sản phẩm hàng hóa, bất động sản đầu tư và dịch vụ, chi phí liên quan đến hoạt động kinh doanh bất động sản đầu tư như: chi phí khấu hao, chi phí sửa chữa nâng cấp, chi phí cho thuê hoạt động, chi phí thanh lý, nhượng bán bất động sản đầu tư), chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Kết quả hoạt động tài chính: Là số chênh lệch giữa doanh thu của hoạt động tài chính với chi phí tài chính.
Kết quả hoạt động khác: Là số chênh lệch giữa các khoản thu nhập khác với chi phí khác.
Công thức xác định kết quả kinh doanh
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh = Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ + (Doanh thu hoạt động tài chính – Chi phí tài chính) – (Chi phí bán hàng + Chi phí quản lý doanh nghiệp).
Lợi nhuận kế toán trước thuế = Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh + (Thu nhập khác – Chi phí khác).
1.2.4. Yêu cầu quản lý và nhiệm vụ kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh
1.2.4.1. Yêu cầu quản lý về kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh
Tổ chức quản lý chặt chẽ tình hình tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, tình hình thanh toán với người mua, thanh toán với ngân sách nhà nước các khoản thuế tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ phải nộp.
Quản lý chi phí kinh doanh phải tuân thủ nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả, đúng mục đích, tránh tình trạng sử dụng lãng phí, sai mục đích, đồng thời đảm bảo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường.
Kế toán kết quả kinh doanh cần tuân thủ theo đúng chuẩn mực kế toán Việt Nam, chế độ kế toán hiện hành, các văn bản pháp lý, các thông tư, quyết định có liên quan. Đồng thời, yêu cầu quản lý kế toán kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp cần phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh, mô hình quản lý của DN đó. Khi xác định kết quả kinh doanh phải đảm bảo nguyên tắc phù hợp khi ghi nhận doanh thu và chi phí phát sinh trong kỳ hạch toán
Yêu cầu quản lý kế toán kết quả kinh doanh đối với việc thực hiện được các mục tiêu, kế hoạch kinh doanh trong từng kỳ. Kế toán xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cần được thực hiện một cách thường xuyên, chính xác, kịp thời, giúp cho DN kiểm soát được tình hình doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh trong kỳ của DN tăng giảm thế nào để nhà quản trị có cái nhìn tổng quát nhất từ đó đưa ra được các biện pháp và phương án kinh doanh hợp lý nhất.
1.2.4.2. Nhiệm vụ kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh
Phản ánh, ghi chép đầy đủ tình hình hiện có và sự biến động về mặt số lượng, chủng loại, quy cách, mẫu mã,... đối với từng loại hàng hóa, dịch vụ bán ra.
Phản ánh, ghi chép đầy đủ, kịp thời các khoản doanh thu, các khoản giảm trừ doanh thu và toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ để cuối kỳ tập hợp doanh thu, chi phí, từ đó xác định được kết quả kinh doanh.
Theo dõi thường xuyên, liên tục biến động tăng, giảm các khoản doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, doanh thu hoạt động tài chính và thu nhập khác.
Theo dõi chi tiết, riêng biệt từng loại doanh thu nhằm phản ánh kịp thời, chi tiết, đầy đủ kết quả kinh doanh làm căn cứ lập các báo cáo tài chính.
Theo dõi chi tiết các khoản giảm trừ doanh thu, các khoản phải thu, chi phí của từng hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời theo dõi và đôn đốc các khoản phải thu khách hàng.
Xác định chính xác kết quả hoạt động kinh doanh, theo dõi tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Cung cấp các thông tin kế toán chính xác, kịp thời cho vệc lập Báo cáo tài chính và định kỳ phân tích hoạt động kinh doanh liên quan đến doanh thu và xác định kết quả kinh doanh.
Xác định đước quá trình luân chuyển chứng từ về kế toán doanh thu và xác định kết quả kinh doanh.
Đưa ra những kiến nghị, biện pháp nhằm hoàn thiện việc tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh, cung cấp cho ban lãnh đạo những thông tin cần thiết để xây dựng những kế hoạch cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
1.3. Sự chi phối của Chuẩn mực kế toán Việt Nam đến kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại
1.3.1. Chuẩn mực kế toán số 01- Chuẩn mực chung
Chuẩn mực số 01: Chuẩn mực chung, ban hành và công bố theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Chuẩn mực chung quy định và hướng dẫn các nguyên tắc và yêu cầu kế toán cơ bản, các yếu tố và ghi nhận các yếu tố của BCTC doanh nghiệp.
Các nguyên tắc cơ bản quy định trong chuẩn mực:
* Cơ sở dồn tích: Mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền. BCTC lập trên cơ sở dồn tích phản ánh tình hình tài chính của DN trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Hiểu theo một cách đơn giản, đây là nguyên tắc kế toán dựa trên cơ sở dự thu
– dự chi, là một trong các nguyên tắc kế toán cơ bản nhất chi phối các phương pháp kế toán cụ thể trong kế toán doanh nghiệp, và được xem là một nguyên tắc chính yếu đối với việc xác định lợi nhuận của doanh nghiệp. Theo đó, mọi giao dịch liên quan đến doanh thu, thu nhập và chi phí được ghi nhận tại thời điểm phát sinh giao dịch, không quan tâm đến thời điểm thực tế thu hoặc chi tiền. Để hiểu hơn về nguyên tắc này, trước tiên chúng ta cần phần biệt nguyên tắc kế toán theo cơ sở tiền và nguyên tắc kế toán theo cơ sở dồn tích.
Với nguyên tắc kế toán theo cơ sở tiền, mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh được ghi nhận dựa trên cơ sở thực thu, thực chi. Hay nói một cách khác, doanh thu, thu nhập và chi phí chỉ được ghi nhận khi các giao dịch được phát sinh bằng tiền. Theo
đó, lợi nhuận và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh trong một kỳ sẽ bằng nhau. Ưu điểm nổi bật của kế toán theo cơ sở tiền khi trình bày thông tin trong báo cáo tài chính là: tiền thu vào chi ra là những hoạt động “hữu hình”, số tiền và ngày thu được xác định cụ thể, chính xác nên thời điểm để ghi nhận doanh thu được xác định một cách chắc chắn, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà quản trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc ghi nhận doanh thu, chi phí có liên quan mật thiết đến việc xác định lợi nhuận của đơn vị, và do đó ảnh hưởng trực tiếp đến việc tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Với nguyên tắc hạch toán này, thuế thu nhập doanh nghiệp đơn vị phải nộp được tính dựa trên dòng tiền thực thu thực chi của đơn vị, đứng về góc độ doanh nghiệp là hợp lý.
Tuy nhiên, việc hạch toán theo cơ sở tiền lại phát sinh yếu điểm trong nhiều trường hợp, ví dụ giao dịch bán chịu. Trong giao dịch bán chịu, hàng hóa được chuyển cho khách hàng sử dụng trước khi tiền về tới đơn vị, và doanh thu được ghi nhận tại thời điểm tiền về. Về bản chất, mặc dù đơn vị chưa nhận được tiền, nhưng trên thực tế đơn vị đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích liên quan đến hàng hóa đó cho đối tác. Từ thời điểm đó, quyền định đoạt hàng hóa thuộc về đối tác, và như vậy, phần lợi ích kinh tế khi chuyển giao hàng hóa này doanh nghiệp nên ghi nhận vào sổ sách dưới dạng doanh thu. Mặt khác, xét về khoản tiền chưa nhận được, đây thực chất là khoản tiền của đơn vị đang bị đối tác chiếm dụng, nhưng đơn vị vẫn có quyền sở hữu đối với khoản tiền này, thể hiện ở chỗ đơn vị có thể sử dụng khoản tiền đó để chi trả nếu cần thiết (bù trừ), và đó thực chất là tài sản của đơn vị thể hiện dưới dạng khoản phải thu. Do đó, nghiệp vụ này cần thiết phải được ghi nhận vào sổ sách để đảm bảo thông tin kế toán phản ánh đúng thực trạng tài chính của đơn vị. Tuy nhiên, với kế toán theo cơ sở tiền, nghiệp vụ này chưa được ghi nhận.
Còn với nguyên tắc kế toán theo cơ sở dồn tích, doanh thu, thu nhập và chi phí được ghi nhận tại thời điểm phát sinh giao dịch, không quan tâm đến thời điểm tiền nhận được. Kế toán theo cơ sở dồn tích không quan tâm tiền đã thu được hay chưa.
Đối với kế toán theo cơ sở dồn tích, doanh thu được ghi nhận không nhất thiết cùng lúc với dòng tiền vào doanh nghiệp, nhất là trong trường hợp giao dịch bán
chịu. Trong khi đó, kế toán theo cơ sở dồn tích khắc phục được nhược điểm của kế toán theo cơ sở tiền trong giao dịch bán chịu ở trên, vì thời điểm ghi nhận doanh thu theo nguyên tắc này là thời điểm đơn vị chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa thay vì thời điểm nhận được tiền như kế toán theo cơ sở tiền. Lợi nhuận theo cơ sở dồn tích là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí; từ đó, báo cáo tài chính nói chung và báo cáo kết quả kinh doanh nói riêng được lập trên cơ sở dồn tích phản ánh trung thực các giao dịch kinh tế trong kỳ, cho phép tình trạng tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp được phản ánh một cách đầy đủ, hợp lý. Hơn nữa, do không có sự trùng hợp giữa lượng tiền thu vào với doanh thu trong kỳ và tồn tại chênh lệch giữa chi phí ghi nhận với lượng tiền chi ra trong một kỳ, kế toán theo cơ sở dồn tích cho phép theo dõi các giao dịch kéo dài qua các kỳ khác nhau, như nợ phải thu, nợ phải trả, khấu hao, dự phòng…
* Hoạt động liên tục: BCTC phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, nghĩa là doanh nghiệp không có ý định cũng như không buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp đáng kể quy mô hoạt động của mình. Trường hợp thực tế khác với giả định liên tục thì BCTC phải lập trên một cơ sở khác và phải giải thích cơ sở đã sử dụng để lập BCTC.
* Giá gốc: Tài sản phải được ghi nhận theo giá gốc. Giá gốc của tài sản được tính theo số tiền hoặc khoản tương đương tiền đã trả, phải trả hoặc tính theo giá trị hợp lý của tài sản đó vào thời điểm tài sản được ghi nhận. Giá gốc của tài sản không được thay đổi trừ khi có quy định khác trong chuẩn mực kế toán cụ thể. Các tài sản của công ty, trong đó có các hàng hóa mua về phải tuân thủ nguyên tắc giá gốc.
* Phù hợp: Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp với nhau. Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó.
Chi phí tương ứng với doanh thu gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của kỳ trước hoặc phải trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó.
Với nguyên tắc này, xét theo nghĩa đen thì có thể hiểu, bất cứ khi nào kế toán ghi nhận doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng với việc tạo ra doanh thu đó, hay nói cách khác là việc hạch toán đồng thời. Vấn đề ở đây là phải xác định được chi phí tương ứng với doanh thu hạch toán trong kỳ. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng trong những trường hợp xác định doanh thu, chi phí của quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Còn một số các trường hợp khác, có một số khoản doanh thu, thu nhập khác rất khó xác định được chi phí đi kèm để hạch toán đồng thời. Chẳng hạn như: lãi tiền gửi ngân hàng (doanh thu tài chính), hay doanh thu tài chính nhận được khi được chiết khấu thanh toán. Như vậy, liệu việc ghi nhận các doanh thu này có vi phạm nguyên tắc phù hợp? Nếu xét về bản chất, các loại doanh thu này vẫn có chi phí đi kèm, đó là chi phí cơ hội. Tuy nhiên, việc xác định được một cách đáng tin cậy giá trị của loại chi phí này là rất khó, và việc có được chứng từ để làm bằng chứng chứng minh cho việc phát sinh của chi phí này càng khó hơn. Điều đó dẫn đến việc kế toán không thể hạch toán khoản chi phí này vào sổ sách.
Sự phù hợp về thời gian được hiểu là khi doanh thu hay chi phí phát sinh cho nhiều kỳ thì cần phân bổ cho nhiều kỳ, chỉ đưa vào doanh thu, chi phí phần giá trị phát sinh tương ứng với kỳ hạch toán. Đó là lý do hệ thống tài khoản có thêm các tài khoản dùng để “treo” doanh thu, chi phí lại chờ phân bổ như TK242, TK338.
* Nhất quán: Các chính sách và phương pháp kế toán doanh nghiệp đã chọn được áp dụng thống nhất ít nhất trong một kỳ kế toán năm. Trường hợp có thay đổi chính sách và phương pháp kế toán đã chọn thì phải giải trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần thuyết minh BCTC.
Nguyên tắc này cũng bắt nguồn từ mong muốn thông tin cung cấp được trung thực và hợp lý. Vì việc ghi nhận doanh thu chi phí có liên quan trực tiếp đến việc xác định kết quả kinh doanh của đơn vị, do đó, nếu không qui định chặt chẽ, nhà quản lý có thể sử dụng để điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp mình theo ý muốn chủ quan. Cụ thể, giả sử nhà quản lý đang chịu áp lực về việc gia tăng lợi nhuận trong kỳ. Trong ghi nhận chi phí, giả sử ban đầu doanh nghiệp áp dụng nguyên tắc tính giá là nhập trước xuất trước. Đến thời điểm gần khóa sổ lập báo cáo tài chính,