- Mục đích: Nhằm tiếp cận trực tiếp, theo dõi được các hoạt động, các thao tác và quá trình làm việc một hệ thống kế toán để có thể thấy được công tác kế toán xác định doanh thu, chi phí của đơn vị đã phù hợp với chuẩn mực chưa, hiệu quả chưa và có ưu nhược điểm gì.
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
- Trong Công ty: Qua báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, báo cáo doanh thu, bảng phân bổ chi phí, qua nhân viên kế toán…
- Ngoài Công ty: Qua phương tiện truyền thông như website của Công ty, các giáo trình kế toán, các bài luận văn, Luận văn khóa trước, internet…
* Phương pháp so sánh: Là phương pháp được thực hiện thông qua việc đối chiếu giữa các sự vật, hiện tượng với nhau để thấy được những điểm giống và khác nhau giữa chúng. Trong quá trình nghiên cứu kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh nội dung của phương pháp này được cụ thể hóa thông qua việc so sánh, đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn về công tác kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp, đối chiếu công tác kế toán doanh thu chi phí và kết quả kinh doanh giữa các doanh nghiệp kinh doanh đồ điện tử, điện lạnh, hàng gia dụng để thấy được điểm mạnh, lợi thế mà doanh nghiệp đã đạt được, đối chiếu số liệu giữa chứng từ gốc với các sổ kế toán liên quan, đối chiếu số liệu cuối kỳ giữa Sổ Cái và Bảng tổng hợp chi tiết để có kết quả chính xác khi lên Báo cáo tài chính.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại.
Chương 2: Thực trạng kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Khí Công nghiệp Long Biên.
Có thể bạn quan tâm!
- Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Khí Công nghiệp Long Biên - 1
- Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Khí Công nghiệp Long Biên - 2
- Kết Quả Kinh Doanh Và Phân Loại Kết Quả Kinh Doanh
- Chuẩn Mực Kế Toán Số 14 –Doanh Thu Và Thu Nhập Khác
- Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Khí Công nghiệp Long Biên - 6
Xem toàn bộ 152 trang tài liệu này.
Chương 3: Hoàn thiện kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Khí Công nghiệp Long Biên.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN DOANH THU, CHI PHÍ VÀ KẾT QUẢ KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.1. Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp hóa chất ảnh hưởng đến kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh
Theo luật doanh nghiệp năm 2014 thì Hoạt động kinh doanh được hiểu là: "Việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi". Hoạt động kinh doanh trong một số trường hợp được hiểu như hoạt động thương mại. Theo Luật Thương mại 2005 giải thích, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Do đó kinh doanh thương mại là quá trình đưa sản phẩm từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu dùng qua hai quá trình chủ yếu đó là mua hàng và bán hàng. Đối tượng kinh doanh thương mại rất phong phú, bao gồm tất cả các loại hàng hoá lưu thông trên thị trường, của nhiều ngành hàng khác nhau như: Hàng nông sản, thuỷ sản, hàng vật tư thiết bị, thực phẩm chế biến…
Đặc điểm cơ bản của hoạt động kinh doanh thương mại là thực hiện việc tổ chức lưu thông hàng hoá, dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong tiêu dùng xã hội.
Kinh doanh thương mại cũng có những đặc điểm riêng của mình như sau:
- Đối tượng kinh doanh thương mại là các loại hàng hoá được phân loại theo từng ngành hàng:
+ Hàng vật tư thiết bị
+ Hàng công nghệ phẩm tiêu dùng
+ Hàng lương thực, thực phẩm chế biến...
- Đối tượng phục vụ của ngành kinh doanh thương mại là người tiêu dùng, bao gồm: Các cá nhân, các đơn vị sản xuất kinh doanh, các đơn vị, tổ chức xã hội khác...
- Kết thúc một quá trình kinh doanh thương mại thì vốn của doanh nghiệp được chuyển hoá từ hình thái tiền tệ sang hình thái hàng hoá và từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ.
- Quá trình lưu chuyển hàng hoá trong kinh doanh thương mại bao gồm hai giai đoạn, giai đoạn mua hàng và giai đoạn bán hàng, không qua khâu chế biến làm thay đổi hình thái vật chất của hàng hoá. Trong đó:
+ Mua hàng là giai đoạn đầu tiên của quá trình lưu chuyển hàng hoá, thông qua mua hàng, quan hệ trao đổi và quan hệ thanh toán tiền hàng giữa người mua và người bán về giá trị hàng hoá được thực hiện. Trong các doanh nghiệp thương mại, hàng hoá chỉ được coi là hàng mua khi thoả mãn đồng thời ba điều kiện: Phải thông qua một phương thức mua - bán - thanh toán tiền hàng nhất định, doanh nghiệp đã nắm được quyền sở hữu về hàng hoá, và mất quyền sở hữu về tiền hay một loại hàng hoá khác, và hàng mua về nhằm mục đích để bán hoặc qua gia công rồi bán.
+ Bán hàng là khâu cuối cùng trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Thông qua bán hàng, giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá được thực hiện, vốn của doanh nghiệp được chuyển từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ, doanh nghiệp thu hồi được vốn bỏ ra, bù đắp được chi phí và có nguồn tích luỹ để mở rộng kinh doanh. Quá trình bán hàng thường được thực hiện qua hai phương thức là bán buôn và bán lẻ. Đặc trưng của bán buôn là, khi kết thúc quá trình mua bán, hàng hoá vẫn trong quá trình lưu thông, còn đặc trưng của bán lẻ là, khi kết thúc quá trình mua bán, hàng đã vào lĩnh vực tiêu dùng. Bán buôn và bán lẻ hàng hoá được thực hiện bằng nhiều hình thức bán thẳng, bán qua kho, bán trực tiếp và gửi bán qua đại lý, ký gửi.
- Trong các doanh nghiệp thương mại, vốn hàng hoá là vốn chủ yếu nhất và nghiệp vụ kinh doanh hàng hoá là nghiệp vụ phát sinh thường xuyên, chiếm một khối lượng công việc rất lớn, quản lý hàng hoá là một trong những nội dung quản lý quan trọng nhất trong các doanh nghiệp thương mại.
Trong quản lý kinh doanh ở các doanh nghiệp kinh doanh mà dặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh thương mại, kế toán giữ vai trò quan trọng, là công cụ để
điều hành quản lý các hoạt động kinh doanh diễn ra trong doanh nghiệp, trong đó các phần hành kế toán, doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh là các phần hành kế toán cơ bản nhất trong hạch toán kế toán hoạt động kinh doanh cũng như trong nội dung quản lý hàng hoá của doanh nghiệp thương mại. Kế toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại mang những đặc điểm riêng của mình.
1.2. Khát quát chung về doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại
1.2.1. Chi phí và phân loại chi phí
Khái niệm chi phí
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài các hao phí về lao động sống cần thiết và lao động vật hóa để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp còn phải bỏ ra rất nhiều các khoản chi phí khác, các khoản chi phí có thể là một bộ phận mới do doanh nghiệp sáng tạo ra và cũng có những khoản chi phí đôi khi rất khó xác định chính xác là hao phí về lao động sống hay hao phí về lao động vật hóa. Do vậy hiện nay, chi phí hoạt động của doanh nghiệp được hiểu là toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình hoạt động kinh doanh, biểu hiện bằng tiền và tính cho một thời kỳ nhât định.
Theo quan điểm kinh tế, chi phí là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ sở hữu. Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kỳ để thực hiện quá trình sản xuất, tiêu thụ hàng hóa.
Đối với các doanh nghiệp thương mại hoạt động kinh tế chủ yếu là mua và bán hàng hoá nhằm thu lợi nhuận và thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác của doanh nghiệp. Để thực hiện các mục tiêu của mình, doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định, các chi phí phát sinh trong từng ngày, từng giờ ở tất cả các giai
đoạn khác nhau của quá trình kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong một thời kỳ nhất định. Trước hết là các chi phí phát sinh ở khâu mua hàng, đó là các chi phí vận chuyển hàng hoá từ nơi mua tới kho của doanh nghiệp, chi phí tiền lương trả cho cán bộ công nhân viên chuyên trách ở khâu mua hàng hoá trong một thời gian nhất định. Tiếp đến là chi phí ở khâu dự trữ và tiêu thụ hàng hoá. Các chi phí này bao gồm chi phí chọn lọc, đóng gói, bảo quản hàng hoá, chi phí vận chuyển hàng hoá từ kho của doanh nghiệp đến người tiêu dùng, tiền thuê kho bãi, chi phí sử dụng đồ dùng, khấu hao TSCĐ, quảng cáo và các chi phí có liên quan khác. Ngoài các chi phí kể trên là các chi phí có liên quan đến quản lý doanh nghiệp thương mại. Trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp còn phải thực hiện các nghiệp vụ kinh tế khác như đầu tư liên doanh, liên kết, nhượng bán, thanh lý TSCĐ, mua bán chứng khoán, đầu tư vào hệ thống tín dụng nhằm thu lợi, bảo toàn vốn kinh doanh... Các hoạt động kinh tế cũng đòi hỏi doanh nghiệp thương mại phải phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định trong kỳ, các khoản chi phí này sẽ được bù đắp bằng các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp thương mại trrong kỳ. Như vậy, từ góc độ doanh nghiệp có thể thấy rằng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí phát sinh từ khâu mua vào dự trữ đến khâu bán ra và các chi phí có liên quan đến đầu tư vốn ra ngoài và được bù đắp bằng thu nhập hoặc doanh thu kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong kỳ đó.
Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 01- Chuẩn mực chung: Chi phí là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ sở hữu.
❖ Phân loại chi phí
Các chi phí trong doanh nghiệp được nhìn nhận theo nhiều góc độ. Phân loại chi phí là cách sắp xếp các chi phí khác nhau vào cùng một nhóm dựa trên các tiêu
thức phân loại khác nhau. Phân loại chi phí phụ thuộc vào nhu cầu thông tin quản lý. Tùy vào yêu cầu thông tin mà có các cách phân loại chi phí khác nhau.
* Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế, chi phí được phân thành 5
loại:
Theo cách phân loại này, chi phí phát sinh nếu có cùng nội dung kinh tế được
sắp xếp chung vào cùng một yếu tố, bất kể nó phát sinh ở bộ phận nào, dùng để sản xuất hàng hóa gì. Việc phân loại theo tiêu thức này giúp tập hợp, quản lý chi phí tốt hơn, qua đó đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, cung cấp tài liệu để lập dự toán chi phí sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, việc phân loại này không phân biệt được chi phí theo từng mục đích và nguyên nhân gây ra chi phí. Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành 5 yếu tố:
- Chi phí vật tư: Bao gồm toàn bộ giá trị các loại vật tư dùng vào hoạt động kinh doanh trong kỳ.
- Chi phí nhân công (tiền lương và các khoản trích theo lương): Là toàn bộ các khoản tiền lương phải trả và các khoản trích theo lương như: chi phí tiền lương, phụ cấp phải trả, và các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh phí công đoàn theo tỷ lệ quy định trên tiền lương của người lao động tính vào chi phí.
- Chi phí khấu hao TSCĐ: là toàn bộ số tiền khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh trong kỳ.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là toàn bộ số tiền doanh nghiệp phải trả cho các dịch vụ đã sử dụng vào hoạt động kinh doanh trong kỳ do các đơn vị khác cung cấp như: Điện, nước, điện thoại…
- Chi phí khác bằng tiền: Gồm các khoản chi phí phục vụ cho hoạt động kinh doanh chưa được phản ánh ở các chỉ tiêu trên đã chi bằng tiền trong kỳ báo cáo, như chi tiếp khách, hội họp.
* Phân loại chi phí theo mối quan hệ với đối tượng tập hợp chi phí:
- Chi phí trực tiếp: Là những khoản chi phí liên quan trực tiếp đến việc mua vào một loại hàng hóa nhất định và hoàn toàn có thể hạch toán, tập hợp trực tiếp cho hàng hóa đó.
- Chi phí gián tiếp: Là những chi phí có liên quan đến nhiều loại hàng hóa, nhiều hoạt động kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Kế toán phải tập hợp chung sau đó phân bổ cho từng đối tượng liên quan đến theo tiêu thức thích hợp.
Với cách phân loại chi phí này, trong trường hợp có chi phí gián tiếp phát sinh, bắt buộc phải áp dụng phương pháp phân bổ, lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp. Mức độ chính xác của chi phí gián tiếp tập hợp cho từng đối tượng phụ thuộc vào tính hợp lý và khoa học của tiêu thức phân bổ chi phí.
* Phân loại chi phí theo mối quan hệ với các chỉ tiêu trên BCTC:
Giá vốn hàng bán: Là giá thực tế xuất kho của hàng đã bán được hoặc là giá thành thực tế dịch vụ hoàn thành, đã được xác định là tiêu thụ.
Chi phí bán hàng: là toàn bộ các khoản chi phí thực tế phát sinh trong quá trình tiêu thụ hàng hóa, cung cấp dịch vụ bao gồm các chi phí chào hàng, giới thiệu hàng hóa, hoa hồng bán hàng, bảo hành hàng hóa, chi phí bảo quản, đóng gói, vận hành...
Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là toàn bộ chi phí liên quan đến hoạt động quản lý kinh doanh, quản lý hành chính, quản lý điều hành chung của toàn bộ doanh nghiệp.
Chi phí hoạt động tài chính: bao gồm các khoản chi phí hoặc các khoản lỗ liên quan đến hoạt động tài chính như chi phí lãi vay, chi phí góp vốn liên doanh, các kho ản lỗ chênh lệch tỷ giá ngoại tệ, lỗ chuyển nhượng vốn...
Chi phí khác: Bao gồm các chi phí ngoài các chi phí kinh doanh phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh thông thường của doanh nghiệp như chi phí về thanh lý, nhượng bán tài sản, các khoản tiền bị phạt do vi phạm hợp đồng...
1.2.2. Doanh thu và phân loại doanh thu
❖ Khái niệm doanh thu
Theo Chuẩn Mực Kế Toán Việt Nam số 14 (VAS14- Doanh thu và thu nhập khác) ban hành theo quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của BTC qui định: “Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế của doanh nghiệp đã thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu”.
Như vậy, có thể hiểu bản chất của doanh thu là tổng giá trị được thực hiện do việc bán sản phẩm, hàng hóa hay cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
Theo thông tư 200/2014/TT-BTC ban hành ngày 22/12/2014 thì doanh thu được định nghĩa là lợi ích kinh tế thu được làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp ngoại trừ phần đóng góp thêm của các cổ đông. Doanh thu được ghi nhận tại thời điểm giao dịch phát sinh, khi chắc chắn thu được lợi ích kinh tế, được xác định theo giá trị hợp lý của các khoản được quyền nhận, không phân biệt đã thu tiền hay sẽ thu được tiền.
Liên quan đến doanh thu còn có các khoản giảm trừ doanh thu gồm:
Chiết khấu thương mại: Là khoản doanh nghiệp bán giá niêm yết cho khách hàng mua hàng với khối lượng lớn.
Giảm giá hàng bán: là khoản giảm trừ cho người mua do hàng hóa kém phẩm chất, sai quy cách hoặc lạc hậu thị hiếu.
Giá trị hàng bán bị trả lại: Là khối lượng hàng bán đã xác định là tiêu thụ bị khách hàng trả lại và từ chối thanh toán.
❖ Phân loại doanh thu
Doanh thu chỉ được ghi nhận khi thỏa mãn đồng thời các điều kiện ghi nhận cho doanh thu bán hàng, doanh thu tiền lãi, cổ tức và lợi nhuận được chia theo quy định hiện hành, nếu không thỏa mãn thì không hạch toán vào doanh thu.
* Phân loại doanh thu theo phương thức bán hàng: Theo cách phân loại này doanh thu của doanh nghiệp được chia thành: Doanh thu bán buôn, doanh thu bán lẻ và doanh thu bán hàng đại lý.
Doanh thu bán buôn: Bao gồm doanh thu phát sinh từ phương thức bán buôn hàng hoá qua kho và phương thức bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng.
Doanh thu bán lẻ: Là doanh thu bán hàng hoá trực tiếp cho người tiêu dùng.
Cách phân loại này cung cấp các thông tin cần thiết cho doanh nghiệp lập kế hoạch kết cấu mặt hàng kinh doanh đồng thời có biện pháp quản lý phù hợp với từng phương thức bán hàng.