Đặc Điểm Của Ngành Xây Dựng Cơ Bản Ảnh Hưởng Đến Công Tác Kế Toán Chi Phí Sản Xuất Và Giá Thành Sản Phẩm


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH

SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG


1.1. Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản ảnh hưởng đến công tác kế toán chi phí sản xuấtgiá thành sản phẩm

Tại Việt Nam, công nghiệp xây dựng là ngành sản xuất vật chất lớn nhất. Và tính đến thời điểm hiện tại, ngành xây dựng vẫn đang thể hiện rò vai trò quan trọng của mình bởi:

+ Bảo đảm và giúp nâng cao năng lực sản xuất, năng lực phục vụ cho các ngành của nền kinh tế.

+ Đảm bảo mối quan hệ tỉ lệ, cân đối, hợp lý sức sản xuất cho phát triển kinh tế trong các ngành, các khu vực, các vùng kinh tế.

+ Tạo điều kiện nâng cao chất lượng, hiệu quả cho các hoạt động xã hội, dân sinh, quốc phòng của quốc gia.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

+ Đóng góp đáng kể lợi nhuận cho kinh tế.

Theo số liệu thống kê của Viện nghiên cứu phát triển hạ tầng và quy hoạch đô thị, kể từ giữa năm 2018 đến nay, tốc độ phát triển của mảng xây dựng xây lắp và hạ tầng giảm mạnh với tỷ lệ tăng trưởng trong năm 2018 – 2019 chỉ đạt 9,2 – 9,5%. Dễ dàng nhận thấy những khó khăn điển hình mà doanh nghiệp xây dựng phải đối diện tại thời điểm này là sự cạnh tranh quyết liệt trong ngành, thị trường bất động sản chững lại, sự mất cân đối tổng nợ trên vốn khả dụng đặc biệt là khoản phải thu trên tổng tài sản gia tăng, chi phí vốn vay tăng mạnh bào mòn lợi nhuận dẫn đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp giảm sút. Kể từ tháng 02/2020 ngành xây lắp đã chịu tác động mạnh bởi các yếu tố khách quan trong đó không thể xem nhẹ tác động tiêu cực từ đại dịch Covid-19, đặc biệt là xây dựng bất động sản du lịch, nghỉ dưỡng; tuy nhiên khu vực bất động sản công nghiệp có hy vọng tăng trưởng tốt do một mặt, ảnh hưởng của Covid- 19 đối với Trung Quốc rất nặng, mặt khác hệ quả của chiến tranh thương mại

Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây dựng tại Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Công nghiệp HTH - 3


Mỹ - Trung nên xu hướng chuyển dịch đầu tư từ Trung Quốc sang Việt Nam khá mạnh.

So với các ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản có những đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật riêng biệt, thể hiện rò nét ở sản phẩm xây lắp và quá trình tạo ra sản phẩm của ngành. Điều này đã chi phối đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.

Thứ nhất, sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc... có quy mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài... Do đó, việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp phải lập dự toán. Quá trình sản xuất phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời để giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm cho công trình xây lắp.

Thứ hai, sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm không thể hiện rò, chi phí chủ yếu phát sinh trong quá trình cung ứng và quá trình sản xuất. Phù hợp với đặc điểm này, kế toán chỉ tập trung theo dòi và tập hợp chi phí trong quá trình sản xuất.

Thứ ba, sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, người lao động...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp.

Thứ tư, sản phẩm xây lắp từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng thường kéo dài. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc thường diễn ra ngoài trời chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường - như nắng, mưa, lǜ lụt,... Đặc điểm này khiến cho kế toán chi phí trở nên khó khăn, đồng thời đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát phải chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán.

Thứ năm, hoạt động xây lắp được các doanh nghiệp tổ chức thực hiện với nhiều hình thức khác nhau trên cơ sở hợp đồng đã được ký kết với chủ đầu tư.


Việc tổ chức thi công được thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của chủ đầu tư cả về kỹ thuật, chất lượng và tiến độ thi công. Khối lượng công tác xây lắp hoàn thành của từng giai đoạn có thể được các bên liên quan nghiệm thu, xác nhận và thanh toán trên cơ sở quy định của hợp đồng.

Thứ sáu, các doanh nghiệp xây lắp thường tổ chức theo hai phương thức khoán, đó là: khoán toàn bộ chi phí (khoán gọn công trình) và khoán theo khoản mục chi phí cho các đơn vị nội bộ trong doanh nghiệp.

Khoán toàn bộ chi phí là hình thức đơn vị khoán giao toàn bộ giá trị công trình cho đơn vị nhận khoán. Đơn vị nhận khoán tự tổ chức cung ứng vật tư, tổ chức lao động để tiến hành thi công. Khi công nhân hoàn thành bàn giao quyết toán sẽ được thanh toán toàn bộ giá trị công trình theo giá nhận khoán và nộp cho đơn vị giao khoán một khoản theo quy định. Đơn vị giao khoán là đơn vị có đủ tư cách pháp nhân và đứng ra ký kết hợp đồng lắp đặt, chịu trách nhiệm pháp lý về chất lượng và tiến độ thi công công trình.

Khoán theo khoản mục chi phí là hình thức đơn vị giao khoán cho đơn vị nhận khoán nhận các khoản mục chi phí nhất định (thường là chi phí nhân công, vật tư phụ,…), còn các khoản mục còn lại do đơn vị giao khoán tự hạch toán và chịu trách nhiệm giám sát kỹ thuật, chất lượng công trình. Hình thức này áp dụng cho đơn vị nhận khoán là các tổ, đội thi công không đủ điều kiện cung ứng vật tư kỹ thuật, chưa thực hiện hạch toán kinh tế.

Khi nhận khoán, bên giao khoán và bên nhận khoán phải lập hợp đồng giao khoán, trong đó ghi rò nội dung công việc, trách nhiệm, quyền lợi mỗi bên cǜng như thời gian thực hiện hợp đồng. Khi hoàn thành công trình, bên nhận khoán bàn giao, sau đó hai bên lập bản quyết toán khoán và thanh lý hợp đồng.

Nếu đơn vị nhận khoán được phân cấp quản lý tài chính, có tổ chức bộ máy kế toán riêng, đơn vị nhận khoán phải tổ chức hạch toán kế toán hoạt động nhận khoán, theo dòi chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm, lập báo cáo kế toán theo chế độ hiện hành. Đội trưởng đơn vị nhận khoán phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hoạt động kinh doanh lắp đặt nhận khoán, đảm bảo tuân thủ đúng


quy định về chứng từ kế toán, tài khoản kế toán, hệ thống sổ kế toán theo chế độ kế toán hiện hành.

Nếu đơn vị nhận khoán không có tổ chức bộ máy kế toán riêng thì tại đơn vị giao khoán, kế toán hạch toán toàn bộ chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Tại đơn vị nhận khoán, nhân viên hạch toán chỉ có nhiệm vụ thu thập các chứng từ kế toán phát sinh ở đơn vị và chuyển về cho kế toán ở đơn vị giao khoán làm cơ sở tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.

Những đặc điểm trên ảnh hưởng rất lớn đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Công tác kế toán vừa phải đáp ứng yêu cầu chung về chức năng, nhiệm vụ kế toán của một doanh nghiệp sản xuất, vừa phải đảm bảo phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp xây lắp.

1.2. Khái quát chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong

doanh nghiệp xây dựng

1.2.1. Chi phí sản xuất

1.2.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất

Theo chuẩn mực kế toán VAS 01 – “Chuẩn mực chung” thì “Chi phí là tổng giá trị khoản làm giảm lợi ích trong kǶ kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản phân phối cho các cổ đông hoặc chủ sở hữu”. Theo định nghĩa này, chi phí được xem xét theo từng kǶ kế toán và là các khoản mục trong báo cáo tài chính. Theo cách này thì chi phí được ghi nhận, phản ánh theo những nguyên tắc nhất định. Định nghĩa này hoàn toàn phù hợp khi đứng trên góc độ của đối tượng sử dụng thông tin kế toán tài chính, chủ yếu là các đối tượng bên ngoài DN.

Theo giáo trình kế toán tài chính (Đại học Công đoàn, 2012) “Chi phí sản xuất kinh doanh là toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong kǶ dùng vào sản xuất, tiêu thụ sản phẩm được biểu hiện bằng tiền”. [1,120]


Như vậy Chi phí sản xuất của doanh nghiệp là toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp chi ra trong quá trình hoạt động sản xuất biểu hiện bằng thước đo tiền tệ, được tính cho một thời kǶ nhất định.

Trong doanh nghiệp chi phí sản xuất là một khoản mục quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận và giá thành sản phẩm, do đó việc quản lý và giám sát chặt chẽ chi phí là hết sức cần thiết. Để có thể giám sát và quản lý tốt chi phí cần phải phân loai chi phí theo các tiêu thức thích hợp.

1.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất

Trong các doanh nghiệp xây dựng chi phí sản xuất được phân thành các loại sau:

* Theo yếu tố chi phí:

- Chi phí nguyên liệu, vật liệu: gồm toàn bộ giá trị các loại nguyên liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu, thiết bị xây dựng cơ bản… mà doanh nghiệp đã thực sự sử dụng cho hoạt động xây dựng công trình.

- Chi phí nhân công: Là toàn bộ số tiền lương tiền công phải trả, tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân viên chức trong doanh nghiệp.

- Chi phí khấu hao TSCĐ: Là toàn bộ giá trị khấu hao phải trích của các TSCĐ sử dụng trong doanh nghiệp.

- Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là toàn bộ số tiền doanh nghiệp phải trả về các dịch mua từ bên ngoài như tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

- Chi phí khác bằng tiền: Gồm toàn bộ chi phí khác dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp ngoài các yếu tố chi phí trên như chi phí tiếp khách hội họp…

* Theo khoản mục chi phí:

- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là giá trị thực tế của các loại nguyên vật liệu sử dụng trực tiếp cho sản xuất xây dựng sản phẩm.


- Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm các khoản tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất, các khoản phụ cấp lương, tiền công phải trả cho lao động thuê ngoài sử dụng trong xây dựng công trình.

- Chi phí sử dụng máy thi công: bao gồm chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời sử dụng máy thi công

- Chi phí sản xuất chung: Bao gồm các chi phí phát sinh ở đội, bộ phận sản xuất ngoài các chi phí sản xuất trực tiếp như:

+ Chi phí nhân viên quản lí đội sản xuất gồm lương chính, lương phụ và các khoản tính theo lương của nhân viên quản lí đội (bộ phận sản xuất) và của công nhân sản xuất.

+ Chi phí vật liệu: Gồm giá trị vật liệu dùng để sửa chữa bảo dưỡng TSCĐ, các chi phí công cụ dụng cụ ở đội xây dựng.

+ Chi phí khấu hao TSCĐ sử dụng ở đội xây dựng, đội sản xuất

+ Chi phí dịch vụ mua ngoài như chi phí điện nước, điện thoại sử dụng cho sản xuất và quản lí ở đội xâydựng.

* Theo mối quan hệ giữa chi phí và khối lượng sản phẩm sản xuất

- Chi phí cố định: Là những chi phí mang tính tương đối ổn định không phụ thuộc vào số lượng sản phẩm sản xuất trong một mức sản lượng nhất định. Khi sản lượng tăng thì mức chi phí tính trên một sản phẩm có xu hướng giảm.

- Chi phí biến đổi: là những chi phí thay đổi phụ thuộc vào số lượng sản phẩm. Các chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy …thuộc chi phí biến đổi. Dù sản lượng sản phẩm sản xuất thay đổi nhưng chi phí biến đổi cho một sản phẩm thì mang tính ổn định.

Cách phân loại này có vai trò quan trọng trong phân tích điểm hoà vốn phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh của nhà quản lý.

1.2.2. Giá thành sản phẩm

1.2.2.1. Khái niệm về giá thành sản phẩm xây dựng

Để xây dựng một công trình hay một hạng mục công trình thì doanh nghiệp kinh doanh phải đầu tư vào quá trình sản xuất thi công một lượng chi phí nhất định. Những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp chi ra trong một quá trình


thi công đó sẽ tham gia cấu thành nên giá thành sản phẩm xây dựng hoàn thành

của quá trình đó.

Như vậy, giá thành sản phẩm xây dựng là toàn bộ chi phí sản xuất (bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công và chi phí sản xuất chung) tính cho từng công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây dựng hoàn thành đến giai đoạn qui ước đã hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao và được chấp nhận thanh toán.

1.2.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm xây dựng

Để đáp ứng yêu cầu của quản lý trong quá trình sản xuất cǜng như tiêu thụ sản phẩm, xác định giá thành của sản phẩm là việc làm cần thiết và cǜng có ý nghĩa thực tiễn cao. Tuy nhiên yêu cầu của quản lý tại những thời điểm và phạm vi khác nhau sẽ khác nhau. Do vậy, việc phân loại giá thành sẽ là cơ sở để các nhà quản trị doanh nghiệp xác định giá thành sản phẩm.

Giá thành dự toán: Giá thành dự toán là tổng số chi phí dự toán để hoàn thành một khối lượng sản phẩm xây dựng nhất định. Giá dự toán được xác định trên cơ sở các định mức chi phí theo thiết kế được duyệt và khung giá quy định áp dụng trong lĩnh vực XDCB do các cấp có thẩm quyền ban hành.

Giá thành dự toán được tính theo công thức: Z dự toán = T + C + TL

Trong đó: - T: Chi phí trực tiếp (vật liệu, nhân công, máy)

- C: chi phí chung

- TL: Thu nhập chịu thuế tính trước

Mặt khác, đơn giá về vật liệu, nhân công, máy của các cơ quan có thẩm quyền ban hành và dựa trên mặt bằng giá cả thị trường. Chính vì vậy Z dự toán không theo sát được sự biến động thực tế, không phản ánh được thực chất giá trị công trình. Do vậy doanh nghiệp phải lập giá thành kế hoạch để dự kiến chỉ tiêu hạ giá thành.

Giá thành kế hoạch: Là giá thành được xây dựng từ những điều kiện cụ thể của doanh nghiệp trên cơ sở phấn đấu hạ giá thành dự toán bằng các biện pháp quản lý kỹ thuật và tổ chức thi công, các định mức và đơn giá áp dụng trong doanh nghiệp xây dựng.


Z kế hoạch = Z dự toán - Mức hạ Z dự toán

Giá thành thực tế: Phản ánh toàn bộ các chi phí thực tế để hoàn thành, bàn giao khối lượng công tác xây dựng mà doanh nghiệp đã nhận thầu. Giá thành này bao gồm các khoản chi phí theo định mức, vượt định mức và các khoản chi phí phát sinh không có định mức (như chi phí phát sinh do thiệt hại về sản phẩm hỏng, thiệt hại về ngừng sản xuất...). Nó được xác định theo số liệu kế toán cung cấp.

Giá thành thực tế là các khoản chi phí thực tế theo khoản mục quy định thống nhất cho phép tính vào giá thành. Nó được xác định vào cuối kǶ kinh doanh. Việc so sánh giá thực tế với giá dự toán cho phép đánh giá trình độ quản lý và sử dụng chi phí của doanh nghiệp xây dựng này so với doanh nghiệp xây dựng khác. Nếu so sánh giá thực tế với giá kế hoạch, ta có thể đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng trong điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất và trình độ quản lý. Từ đó đưa ra những ý kiến đóng góp cho các nhà quản trị doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

1.2.3. Mối quan hệ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm

Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây dựng là hai mặt biểu hiện của quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng chúng lại khác nhau về phạm vi, giới hạn và nội dung.

Chi phí sản xuất chỉ tính những chi phí sản xuất phát sinh trong một thời kǶ nhất định (tháng, quí, năm) còn giá thành lại liên quan đến chi phí của khối lượng xây dựng dở dang kǶ trước chuyển sang nhưng lại không bao gồm chi phí thực tế của khối lượng xây dựng dở dang cuối kǶ.

- Chi phí sản xuất được tập hợp theo từng thời kǶ nhất định, còn giá thành sản phẩm xây dựng là chi phí sản xuất được tính cho một công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây dựng hoàn thành.

Tuy nhiên, giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây dựng lại có những điểm giống nhau: chúng đều là chi phí phản ánh lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp chi ra trong quá trình sản xuất. Giá thành sản

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/06/2022