“gia đình” người đồng tính không được bảo vệ như quan hệ vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình.
Hơn nữa, nhìn dưới góc độ quyền con người thì quyền được tôn trọng, bảo vệ và quyền được đối xử bình đẳng, trong đó có quyền được kết hôn và quyền mưu cầu hạnh phúc là một quyền chính đáng không ai được phép ngăn cản. Vì sở dĩ, quyền con người mang những giá trị cao quý, được kết tinh từ những nền văn hoá và văn minh nhân loại, là phương tiện chung để bảo vệ, thúc đẩy nhân phẩm, hạnh phúc của con người.
Nhằm hiểu rõ hơn về vấn đề hôn nhân đồng tính cũng như mong muốn góp một phần nhỏ hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền kết hôn của người đồng tính, vì vậy tôi chọn đề tài:"Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đồng tính luyến ái hay cụ thể hơn là vấn đề hôn nhân đồng tính không còn xa lạ. Vấn đề này đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ như: xã hội học, y tế, tâm lí học, luật học… Có thể kể đến là: Xu hướng và tác động xã hội của hôn nhân đồng giới: Xu hướng thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam – TS. Nguyễn Thu Nam – Khoa dân số và phát triển, Viện chiến lược và chính sách y tế, Bộ Y tế; Hôn nhân cùng giới: xu hướng thế giới, tác động xã hội và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam - Tổng hợp tài liệu từ các nghiên cứu khác nhau do Viện nghiên cứu xã hội kinh tế và môi trường (iSEE) thực hiện với sự đóng góp của nhiều tác giả và một số tạp chí…
Dưới góc độ quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo, luận văn nghiên cứu, như: Trương Hồng Quang (2013), “Tìm hiểu một số vấn đề dưới góc độ pháp lí về đồng tính, song tính, chuyển giới”; Trương Hồng Quang (2014), “Người đồng tính, song tính, chuyển giới tại Việt Nam và vấn đề đổi mới hệ thống pháp luật”; nhóm nghiên cứu Lương Thế Huy và Phạm Quỳnh Phương (2016), “Có phải bởi vì tôi là LGBT? Phân biệt đối xử dựa
trên xu hướng tính dục và bản dạng giới tại Việt Nam; Trương Hồng Quang (2017), “Tìm hiểu quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính ở Việt Nam”. Một số nghiên cứu chuyên sâu của các tác giả về vấn đề hôn nhân đồng tính, như: Ths. Ngô Thị Thanh Thủy (2014), “Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia,…
Cũng nghiên cứu về vấn đề này nhưng Khoá luận muốn nhấn mạnh về quyền kết hôn của người đồng tính, một số quyền nhân thân chính đáng của người đồng tính và giải thích về vấn đề kết hôn đồng tính có phải là quyền con người hay không, những khó khăn trong việc ghi nhận quyền kết hôn của người đồng tính và việc không công nhận hôn nhân đồng tính dẫn đến những hậu quả nào. Từ đó đưa ra một số kiến nghị để bảo vệ quyền kết hôn của người đồng tính.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của Khoá luận là làm rõ vấn đề kết hôn đồng tính có phải là quyền con người hay không. Đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật và những khó khăn trong việc công nhận hôn nhân đồng tính là hợp pháp. Qua đó, đề xuất những biện pháp khắc phục, góp phần nhỏ vào công tác xây dựng hệ thống pháp luật trong vấn đề đảm bảo quyền kết hôn của người đồng tính.
Có thể bạn quan tâm!
- Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người - 1
- Gia Đình Là Một Tế Bào Cơ Bản Và Tự Nhiên Của Xã Hội, Cần Phải Được Nhà Nước Và Xã Hội Bảo Hộ.
- Quyền Của Người Đồng Tính Cần Được Ghi Nhận Và Bảo Vệ Trong Pháp Luật
- Thực Trạng Kết Hôn Đồng Tính Trên Thế Giới Và Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 77 trang tài liệu này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Các phương pháp nghiên cứu được thực hiện trong đề tài là:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Mác - Lênin.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách vở
- Phương pháp phân tích luật viết
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
- Phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu thực tế
5. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về quyền con người, sự phát triển của quyền con người và quyền kết hôn đồng tính
Chương 2: Thực trạng của quyền kết hôn đồng tính
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm bảo vệ quyền kết hôn đồng tính ở Việt Nam
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ KẾT HÔN ĐỒNG TÍNH.
1.1 Khái niệm quyền con người
Theo định nghĩa của Văn phòng Cao uỷ Liên Hợp Quốc thì: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và sự tự do cơ bản (fundamental freesoms) của con người” [6,tr.14].
Trong khoa học pháp lý, quyền con người được hiểu là những quyền mà pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả các thể nhân; là những quyền mà bất cứ ai cũng không được phép xâm hại. Hay nói cách khách, quyền con người là những quyền tự nhiên mà bất cứ ai cũng có quyền đó, được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thoả thuận pháp lý quốc tế. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã thể hiện sự phát triển lý luận và tư duy lập hiến trong việc ghi nhận quyền con người so với những bản Hiến pháp trước đó bằng việc dành toàn bộ chương II để quy định các quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo đó, con người có các quyền: quyền sống, quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe; quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật đời tư; quyền được bảo hộ danh dự, uy tín, nhân phẩm; quyền có nơi ở hợp pháp và bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng; quyền sở hữu tư nhân đối với tài sản, quyền thừa kế… Như vậy, quyền con người nói một cách đơn giản là quyền mà một cá nhân sẽ có được, chỉ cần là con người mà không bị phụ thuộc vào quốc tịch, nơi sinh sống, giới tính, dân tộc, màu da, tôn giáo, ngôn ngữ, hay bất cứ đặc điểm nào khác. Việc nghiên cứu nội dung quyền con người là nền tảng cho sự phát triển và tiến bộ xã hội. Vì vậy, quyền
con người luôn là nội dung thu hút sự chú ý rộng rãi của dư luận thế giới cũng như các tổ chức quốc tế và khu vực.
1.2 Sự phát triển của quyền con người
Ý thức về quyền con người và việc thực hiện quyền con người là một quá trình lịch sử lâu dài gắn với lịch sử phát triển của loài người, giải phóng con người qua các hình thái kinh tế - xã hội và các giai đoạn đấu tranh giai cấp. Qua đó, quyền con người được thừa nhận rộng rãi và đã trở thành giá trị chung của toàn thể nhân loại. Trong nhiều xã hội tiền hiện đại cũng đã có các quan niệm về công lý, về sự bình đẳng, phẩm giá và sự tôn trọng của con người. Tuy nhiên, họ cho rằng người cai trị có nghĩa vụ cai quản hợp lý và vì lợi ích chung của mọi người là xuất phát từ đấng tối cao hoặc từ truyền thống chứ không dựa trên khái niệm các quyền cá nhân hay quyền con người. Khái niệm nhân quyền có nguồn gốc từ thời Hy lạp cổ dưới dạng các quyền tự nhiên của con người như quyền được sống,... Người đầu tiên được cho là đã phát triển một lý thuyết toàn diện về nhân quyền là triết gia người Anh - John Locke (1632 - 1704). John Locke cho rằng người dân hình thành nên các xã hội, các xã hội hình thành nên chính phủ để đảm bảo quyền được hưởng các quyền tự nhiên của họ và họ chỉ có nghĩa vụ trung thành với những chính phủ bảo vệ các quyền của họ, thậm chí những quyền này còn được ưu tiên hơn những lợi ích khác của chính phủ. Tuy nhiên, hàm ý các quyền này chỉ mang tính phổ quát chứ không thực sự xem xét tới quyền của tất cả mọi người. Trọng tâm thực sự là bảo vệ những người nam giới, những người có sở hữu tài sản mà không phải là phụ nữ, những người hầu hay những người lao động. Mặc dù vậy, tư tưởng của John Locke cũng đã là một bước đột phá.
Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ không được coi là con người mà chỉ được coi là những công cụ biết nói. Cho nên họ không có và không được thừa nhận các quyền con người. So với chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến đã là một bước tiến lớn trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con người. Giai cấp tư sản là người đầu tiên giơ ngọn cờ nhân quyền
và họ dựa vào các tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, công lý - vốn là yêu cầu bức thiết của nhân dân lao động, tuyệt đối hoá tự do cá nhân, nhấn mạnh yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền con người, quyền tư hữu. Tuy vậy giai cấp tư sản bỏ qua điều kiện quan trọng để người lao động thoát khỏi đói nghèo và bị bóc lột là quyền kinh tế, văn hoá, xã hội mà chỉ tập trung nhấn mạnh quyền dân sự, chính trị.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của loài người, nội dung các quyền con người tiếp tục được phát triển. Nhiều cuộc đấu tranh chính trị lớn trong hai thế kỷ qua liên quan đến việc mở rộng một loạt quyền được bảo vệ. Xu hướng này bao gồm mở rộng quyền bầu cử cho mọi công dân, cho phép người lao động được đấu tranh đòi tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc, xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử vì giới tính và chủng tộc. Những lập luận như là tất cả chúng ta đều có các quyền cơ bản giống nhau, được Nhà nước tôn trọng và quan tâm như nhau được chấp nhận đã dẫn tới những thay đổi chính trị xã hội trên toàn thế giới.
Dấu mốc lớn phải kể đến là Sau khi Chiến tranh thế giới II kết thúc, Liên hợp quốc chính thức ra đời vào ngày 24-10-1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào ngày 10-12-1948. Tuyên ngôn gồm 30 điều về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đã đặt cơ sở cho việc bảo đảm, thúc đẩy các quyền con người trên thế giới trong 70 năm qua.
Từ những tư tưởng sơ khai đầu tiên đến những quyền đầu tiên được ghi nhận trong các điều ước quốc tế như các quyền về dân sự, chính trị gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản lật đổ chế độ phong kiến (như quyền sống, quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, quyền được xét xử công bằng,..); hay các quyền về kinh tế, xã hội, văn hoá được thúc đẩy mạnh mẽ quá trình pháp điển hoá từ giữa thế kỷ XX (như quyền có việc làm, quyền được chăm sóc y tế,…). Cho đến ngày nay, cùng với sự phát triển không ngừng của các ngành khoa học và quá trình toàn cầu hoá, quyền con người cũng đã và đang phát
triển, không ngừng được mở rộng. Có thể kể đến như trên phương diện đời sống xã hội có Quyền con người với môi trường. Quyền con người đối với môi trường là một trong những quyền thuộc nhóm quyền thứ ba (quyền được hưởng hòa bình, quyền phát triển và quyền được sống trong môi trường trong lành). Tuyên bố Stockholm năm 1972 được xác định là một mốc đầu tiên cho sự gắn kết giữa hai vấn đề: quyền con người và môi trường - với tinh thần là con người có các quyền cơ bản về tự do, bình đẳng và điều kiện sống tối thiểu trong môi trường trong lành, cho phép con người có cuộc sống hạnh phúc. Ngoài ra, vấn đề này còn được khẳng định trong một số văn kiện khu vực, trong đó tiêu biểu là Hiến chương châu Phi về quyền của con người và của các dân tộc (Điều 21); Nghị định thư San Salvador bổ sung Hiến chương châu Mỹ về quyền con người (Điều 11). Một trong những yếu tố chính thúc đẩy sự ra đời và thực thi luật môi trường, quyền con người đối với môi trường là sự báo động về ô nhiễm, suy thoái và khủng hoảng môi trường toàn cầu, có nguyên nhân chính từ hoạt đông sống hiện nay của con người. Chính sự biến đổi này đã gây hại đến đời sống kinh tế, sức khỏe, hưởng thụ các quyền cơ bản của con người. Ngoài ra, ở giai đoạn ngày nay, người ta không những chú trọng về quyền được sống trong môi trường trong lành của con người mà còn nhắc tới quyền công bằng với các thế hệ tương lai trong việc được hưởng những nguồn tài nguyên không phải là vô tận của trái đất khi đứng trước các vấn đề về biến đổi khí hậu, vấn đề khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Luật nhân quyền quốc tế tuy có nét đặc trưng chung là có tính phổ quát và tất cả mọi người đều có cơ hội hưởng quyền như nhau không phân biệt giới tính, sắc tộc, tuổi tác… Nhưng trên thực tế, một số nhóm người gặp khó khăn trong việc tiếp cận các quyền cũng như tự mình thực hiện các quyền mà mình đáng được hưởng. Do vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn nên dễ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay vi phạm về quyền con người và được gọi chung là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Trong luật quốc tế, một
số nhóm người được coi là dễ bị tổn thương là phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người không quốc tịch, người thiểu số, người cao tuổi… Do vậy, để giảm thiểu những khó khăn và khả năng bị xâm phạm quyền của họ thì ngoài những công ước quy định quyền chung cho tất cả mọi người như ICCPR, ICESCR thì có những công ước riêng ghi nhận về quyền của nhóm người này. Ví dụ như đối tượng dễ bị tổn thương là những người khuyết tật - được coi là một trong các nhóm thiểu số lớn nhất thế giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất. Tình trạng thân thể bị khuyết tật khiến họ đã và đang phải chịu những thiệt thòi trên tất cả phương diện của đời sống xã hội. Nếu như trước đây chỉ xuất phát từ tình thương và lòng nhân đạo, người khuyết tật chỉ được quan tâm ở mức độ là đảm bảo mức sống tối thiểu và được chăm sóc về y tế thì trong điều kiện kinh tế, xã hội phát triển hơn thì nhận thức cũng thay đổi. Với nhận thức rằng họ cũng là chủ thể của quyền nên việc chăm lo đến quyền của người khuyết tật chính là việc phải tạo điều kiện thuận lợi cho họ được thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hòa nhập cộng đồng và tham gia các hoạt động văn hóa, xã hội. Ví dụ như: tăng cường đào tạo nghề, tạo công ăn việc làm cho người khuyết tật, cũng như xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử với người khuyết tật trong việc làm. Thêm vào đó cũng phải tính đến quyền được tham gia giao thông, khả năng tiếp cận với các công trình công cộng thông qua việc xây dựng các phương tiện, công trình hỗ trợ cho họ. Vì vậy, việc ra đời của Công ước quốc tế về Quyền của người khuyết tật vào tháng 3/2007 là một cơ sở pháp lý vững chắc để các nước tiến hành các chương trình, dự án liên quan đến việc tăng cường và củng cố quyền của người khuyết tật trên phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế.
Có thể kể đến những công ước riêng ghi nhận về quyền của nhóm người dễ bị tổn thương như: đối với quyền của phụ nữ được ghi nhận tại Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) hay Công ước về trấn áp buôn người và bóc bột mại dâm người