Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp công nghiệp trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam - 7


sản hữu hình và tài sản vô hình có thể không chính xác. Phương pháp tốt nhất là sử dụng những tỷ suất hiện hữu trong ngành qua các thời kỳ để đánh giá.

Cần phải đánh gía hết những ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp IPO nếu có để điều chỉnh trên báo cáo thu nhập. Số liệu lợi nhuận trên báo cáo tài chính phải được điều chỉnh lại cho thích hợp. Trươc hết là bảng cân đối kế toán, vì ta chỉ đo lường giá trị thị trường hợp lý của các tài sản cho nên nếu gía thị trường khác với giá trị thể hiện trên bảng cân đối kế toán, một sự điều chỉnh bắt buộc sẽ được thực hiện.

Mặt khác, khi điều chỉnh các khoản mục trên bảng cân đối kế toán phải phân biệt rõ đâu là tài sản hoạt động, tức tài sản có tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đâu là tài sản không hoạt động. Các khoản nợ trên bảng cân đối kế toán bao gồm các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn được loại ra khi định giá doanh nghiệp. Các khoản nợ thể hiện trên bảng cân đối kế toán liên quan đến việc quyết định cấu trúc nguồn vốn và đòn cân nợ của doanh nghiệp, phải trừ ra để phản ánh giá trị thực của tài sản. Các khoản mục trong báo cáo thu nhập cũng được điều chỉnh để phản ánh hợp lý lợi nhuận mong đợi trong tương lai. Các khoản thu nhập và chi phí không gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh chính phải được loại trừ, những khoản này bao gồm thu nhập do kinh doanh chứng khoán, đầu tư vào bất động sản… chi phí trả lại tiền vay phải được cộng trở lại vào thu nhập.

Việc tái cấu trúc bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập để phản ánh gía trị hiện tại chỉ là bươc khởi đầu, chưa phản ánh đầy đủ giá trị doanh nghiệp. Tiếp theo, người định giá phải biết được tài sản lưu động thường và tài sản cố định thuần được đầu tư bằng những nguồn tài trợ ngắn hạn hay dài hạn để xác định gía thị trường hiện tại của nó. Tuy nhiên, cần xem xét ít nhất là lợi nhuận của 3 năm trong quá khứ để từ đó tính ra lợi nhuận bình quân làm căn cứ định giá. Đối với những doanh nghiệp IPO mà lợi nhuận trong quá khứ luôn tăng trưởng đều qua các năm, và khả năng này vẫn còn tiếp diễn trong tương lai thì cách tốt nhất để phản ánh mức lợi nhuận bình quân là dùng phương pháp hồi quy tuyết tính hoặc nếu có tính phức tạp quá thì sử dụng cách tính bình quân gia quyền, như thế mới phản ánh chính xác giá trị của doanh nghiệp.


Phương pháp này rất dễ sử dụng khi định giá doanh nghiệp, nó cung cấp một dãy số những giá trị mà người mua và người bán có thể thương lượng để đạt được giá trị hợp lý.

Phương pháp P/E:

Chỉ số P/E: P/E là chỉ số được tính bằng cách chia giá cổ phiếu (P) cho thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS).

P/E =

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.

Giacophieu Trong đó: EPS =

EPS

Hoạt động tài chính của các doanh nghiệp công nghiệp trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam - 7

Loinhuansauthue

Tongsocophieuluuhanh

Chỉ số P/E càng cao có nghĩa là nhà đầu tư kỳ vọng thu nhập của loại chứng khoán đó trong tương lai càng cao. Tuy nhiên điều này không phải lúc nào cũng đúng, chỉ số P/E đôi khi là biểu hiện của việc doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến EPS thấp là cho P/E cao.

Chỉ số P/E là một công cụ quý giá, bởi trong nền kinh tế thường diễn ra hoạt động đầu tư để đổi lấy hy vọng vào những khoản thu nhập lợi nhuận và/ hoặc giá trị thặng dư tương lai. Việc nhà đầu tư biết được giá trị của lượng vốn bỏ ra để có được những khoản thu nhập liên tục là điều hết sức quan trọng.

P/E thường được các nhà đầu tư sử dụng do cách tính dễ dàng và đơn giản nên phương pháp này được sử dụng nhiều nhất và dùng để so sánh với các cổ phiếu cùng ngành để xem cổ phiếu đó đắt hay rẻ.

Khi một công ty IPO thì cách đơn giản và nhanh nhất là dùng P/E của ngành và nhân với lợi nhuận của doanh nghiệp cần bán hoặc cổ phiếu thì ta sẽ được giá trị của doanh nghiệp đó.

Phương pháp EVA (Economic Value Aded):

EVA là phương pháp đo lường giá trị thặng dư của doanh nghiệp được tạo ra từ việc đầu tư vào một dự án hay một danh mục các dự án. EVA được tính như là kết quả của lợi nhuận tăng thêm từ việc đầu tư và nguồn vốn đầu tư vào các dự án đó:

EVA = (ROI - WACC)* Tổng vốn sử dụng

= EBIT(1 - t) – (tổng vốn sử dụng * WACC).

Trong đó: EVA là giá trị kinh tế tăng thêm ROI là lợi nhuận trên vốn đầu tư

WACC là chi phí sử dụng vốn trung bình.


Trong công thức trên có ba yếu tố cơ bản chúng ta cần biết để tính EVA; đó là lợi nhuận thu được từ những vụ đầu tư, chi phí sử dụng vốn và số vốn đã được đầu tư.

Vốn đầu tư vào tài sản hiện đại trong doanh nghiệp là bao nhiêu? Câu trả lời dễ nhận thấy là dùng giá trị thường của doanh nghiệp, nhưng giá trị thị trường bao gồm không chỉ vốn đầu tư vào tài sản hiện tại mà còn vào sự tăng trưởng mong đợi trong tương lai. Vì chúng ta muốn đánh giá giá trị của tài sản hiện tại, chúng ta chỉ cần đo lường giá trị của những tài sản này. Do có quá nhiều khó khăn trong việc đo lường giá trị thị trường của tài sản hiện hữu nên hầu hết các nhà định giá đều sử dụng giá trị sổ sách như một sự thay thế cho giá trị thị trường được yêu cầu. Vì vậy, khi áp dụng phương pháp này cần có sự điều chỉnh cho phù hợp, đó là chuyển thuê hoạt động sang nợ, vốn hoá chi phí nghiên cứu phát triển và xoá bỏ tác động của chi phí lịch sử. Doanh nghiệp càng lâu đời thì những điều chỉnh để giá trị sổ sách của vốn đầu tư trở thành ước lượng hợp lý của tài sản hiện hữu càng nhiều.

Để xác định ROI, ta cần ước lượng thu nhập hoạt động sau thuế của doanh nghiệp do việc đầu tư đem lại. Một lần nữa, việc hạch toán thu nhập hoạt động của bộ phận kế toán nên được điều chỉnh đối với tài sản thuê hoạt động và những chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí lịch sử để tính ROI.

Yếu tố thứ ba, và cũng là cuối cùng cần cho việc ước lượng EVA là chi phí sử dụng vốn. Trong cả hai phương pháp DCF và EVA, chi phí sử dụng vốn được đo lường dựa trên giá trị thị trường của nợ và vốn chủ sở hữu hơn là giá trị sổ sách.

Thứ tư, Phân phối chứng khoán ra công chúng.

Sau khi hồ sơ xin phép phát hành được uỷ ban chứng khoán nhà nước công bố có hiệu lực, tổ chức bảo lãnh phát hành cùng các đại lý phân phối tiến hành nhận phiếu đặt mua, xử lý các phiếu đặt mua, nhận tiền đặt cọc và lập sổ phân phối chứng khoán. Sau đó là thực hiện việc khoá sổ, vào thời điểm khoá sổ, các tổ chức bảo lãnh có nghĩa vụ thanh toán cho tổ chức phát hành trị giá chứng khoán theo giá IPO trừ đi hoa hồng bảo lãnh. Tổ chức bảo lãnh có nghĩa vụ thanh toán cho tổ chức phát hành vào ngày khoá sổ ngay cả khi chưa hoàn thành việc phân phối. Trước khi khoá sổ, mỗi tổ chức bảo lãnh sẽ thông báo cho tổ


chức bảo lãnh chính những thông tin cần thiết để chuẩn bị chứng chỉ cho số chứng khoán đã bán. Sau khi tập hợp được những thông tin cần thiết, tổ chức bảo lãnh chính chuyển các thông tin đó tới nơi đặt in để chuẩn bị các chứng chỉ. Sau khi chuẩn bị xong, các chứng chỉ đó được gửi tới đại lý chuyển nhượng của tổ chức phát hành. Đại lý chuyển nhượng điền các thông tin cần thiết để hoàn thiện chứng chỉ, ký và gửi các chứng chỉ đó tới công ty đăng ký. Việc thanh toán được thực hiện vào thời điểm khoá sổ đồng thời với việc chuyển giao các chứng chỉ.

Việc tất toán tài khoản cho các tổ chức bảo lãnh: Tổ chức bảo lãnh có nghĩa vụ thanh toán chứng khoán vào thời điểm khoá sổ mặc dù việc chào bán có thể chưa hoàn thành. Nếu đợt phân phối không thành công, các tổ chức bảo lãnh phải nắm giữ các chứng khoán không phân phối hết như đã cam kết . Theo quy định của Hiệp hội các nhà nhà kinh doanh chứng khoán Mỹ (NASD), tổ chức bảo lãnh chính phải tất toán tất cả các tài khoản cho các tổ chức bảo lãnh trong vòng 90 ngày sau khi khoá sổ.

Thứ năm, Bình ổn và điều hoà thị trường, các tổ chức bảo lãnh có thể gặp phải khó khăn trong việc phân phối chứng khoán nếu giá chứng khoán đó trên thị trường giảm xuống dưới giá IPO trước khi hoàn thành việc phân phối. Để giảm thiểu khó khăn này, tổ chức bảo lãnh chính có thể ổn định giá IPO bằng cách mua chứng khoán vào tài khoản của tổ hợp. Việc ổn định có thể được thực hiện trên bất kỳ thị trường nào mà chứng khoán chào bán được giao dịch. Khi thực hiện mua để ổn định, người mua phải thông báo cho nơi nhận lệnh rằng việc mua này nhằm mục đích ổn định, không phải là giao dịch thị trường mở. Tổ hợp bảo lãnh chỉ được đặt mua để ổn định trên một thị trường với cùng mức giá.

d. Phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng.

Phương thức chào bán chứng khoán chính là cách thức thể hiện mối quan hệ giữa đơn vị phát hành và nhà đầu tư trong quá trình chuyển giao chứng khoán phát hành tới các nhà đầu tư. Hiệu quả và mức độ thành công của đợt chào bán chứng khoán ra công chúng phụ thuộc rất nhiều vào cách lựa chọn phương thức bán cho phù hợp. Có rất nhiều phương thức chào bán, theo tác giả gồm các phương thức sau:

Phương thức giá cố định: Nguyên tắc thực hiện của phương thức giá cố định là đơn vị phát hành sẽ định trước mức giá chào bán chứng khoán. Việc phân


phối chứng khoán sau đó sẽ căn cứ vào các lệnh đặt mua của các nhà đầu tư theo nguyên tắc người mua phải đặt trước một phần hay toàn bộ giá trị của chứng khoán đã đăng ký [8]. Phương thức giá cố định thường được thực hiện theo hình thức rộng rãi không phân biệt các đối tượng đầu tư nên còn có những tên gọi khác như phương pháp chào bán công khai hay chào bán phổ thông. Trong phương thức giá cố định, giá chào bán chứng khoán phát hành được thoả thuận và thống nhất giữa tổ chức phát hành và tổ chức thực hiện bảo lãnh phát hành trước khoảng một tuần tính tới thời điểm chứng khoán được chính thức phát hành. Thời hạn một ngày trước ngày phát hành, những nhà đầu tư sẽ phải hoàn tất việc đăng ký số lượng chứng khoán đặt mua theo giá đã xác định. Nếu số lượng đăng ký mua lớn hơn nhiều so với khả năng cung cấp thì chứng khoán sẽ được phân phối cho nhà đầu tư theo tỷ lệ đã đăng ký.

Phương thức đấu giá: Nguyên tắc chung thực hiện phương thức đấu giá là bên phát hành sẽ tiếp nhận các giá đăng ký mua dưới dạng đăng ký kín. Sau khi kết thúc thời gian đăng ký, phía phát hành sẽ công bố kết quả về giá và số lượng được chấp thuận. Trong phương thức đấu giá có các hình thức đấu giá sau: Đấu thầu một giá: Trên cơ sở các nguyên tắc chung của đấu giá, phía phát

hành (tổ chức phát hành hay tổ chức bảo lãnh phát hành) sẽ tổng hợp và công bố một mức giá cố định được áp dụng chung cho tất cả các nhà đầu tư đã thắng thầu.

Đấu thầu nhiều mức giá: Nhà đầu tư được phép đặt nhiều mức giá khác nhau, tương ứng với mỗi mức giá là số lượng cổ phiếu đăng ký mua. Sau khi thời gian đăng ký kết thúc, tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành sẽ tập hợp đăng ký theo thứ tự ưu tiên cho giá đăng ký cao nhất và người trúng thầu sẽ phải thanh toán đúng như giá đã đăng ký. Tại mức giá trúng thầu, nếu cầu lớn hơn cung thì chứng khoán được phân theo tỷ lệ số lượng đặt mua của các nhà đầu tư đặt tại mức giá đó.

Đấu thầu không bình đẳng: Là hình thức đấu thầu mà giá được chọn để thanh toán sẽ thấp hơn giá có khả năng thanh toán của thị trường. Nói một cách khác là giá bán của chứng khoán được xác định dưới mức cao nhất mà tại đó cho phép tất cả số chứng khoán phát hành được bán hết. Dĩ nhiên, trong trường hợp


sử dụng phương thức đấu thầu này thì số lượng chứng khoán phân phối đến nhà đầu tư theo tỷ lệ đăng ký và trúng thầu.

Phương thức lập sổ: Theo phương thức lập sổ, doanh nghiệp phát hành và nhà bảo lãnh phát hành sẽ xác định một khung giá có thể được chấp thuận. Sau đó, trong thời gian được phép thực hiện chiến dịch vận động chào bán tới nhà đầu tư, tổ chức bảo lãnh phát hành sẽ tổ chức những buổi gặp gỡ với những nhà đầu tư tiềm năng để thăm dò khả năng về số lượng cũng như mức giá mà các nhà đầu tư có thể chấp nhận được. Những nội dung được trao đổi trong các cuộc gặp gỡ này chủ yếu nhằm diễn giải về mục đích đợt phát hành, các vấn đề xung quanh đợt chào bán nhưng không vượt quá phạm vi quy định của cơ quan quản lý phát hành. Các nhà đầu tư sẽ đăng ký số lượng chứng khoán và giá chấp thuận. Khi thời gian lập sổ kết thúc (thường vào khoảng 3-5 ngày trước khi phát hành), doanh nghiệp phát hành và đơn vị bảo lãnh phát hành sẽ quyết định giá bán cuối cùng trên cơ sở phân tích những thông tin có được từ các đăng ký của các nhà đầu tư. Khi đã thống nhất được giá bán, tổ chức bảo lãnh phát hành sẽ lựa chọn trong số các nhà đầu tư đã đăng ký mua để quyết định chứng khoán cho họ.

Các phương thức chào bán khác: Với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán đã mở ra những hướng mới cho phép vận dụng kết hợp các phương thức chào bán chứng khoán. Phương thức sử dụng kết hợp các phương thức chào bán ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các đợt chào bán chứng khoán. Nguyên tắc sử dụng hỗn hợp các phương thức là khoanh vùng những đối tượng hay giai đoạn phát hành để sử dụng hình thức phát hành khác nhau nhằm thu được hiệu quả cao nhất. Các dạng kết hợp có thể là phương thức đấu thầu kết hợp với phương thức chào bán giá cố định hoặc phương thức tạo sổ kết hợp với phương thức giá cố định.

Mỗi phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng đều có ảnh hưởng khác nhau đến việc hình thành giá chứng khoán. Mặc dù vai trò của đơn vị bảo lãnh phát hành luôn giữ vị trí trung tâm của đợt chào bán, nhưng ảnh hưởng do tác động của tổ chức này đến giá chào bán cuối cùng trong từng phương thức có những khác biệt rất rõ. Tuy nhiên, việc lựa chọn phương thức chào bán còn phụ thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia quy định.


1.2.2.1.3 Niêm yết chứng khoán.

Để tăng tính thanh khoản cho chứng khoán phát hành, các DNCN phải thực hiện niêm yết chứng khoán trên thị trường. Đây là một hoạt động hỗ trợ cho việc huy động vốn của doanh nghiệp.

a. Khái niệm.

Niêm yết chứng khoán là thủ tục cho phép một chứng khoán nhất định được phép giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán [17]. Cụ thể, đây là quá trình mà sở giao dịch chứng khoán chấp thuận cho doanh nghiệp phát hành có chứng khoán được phép niêm yết và giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán nếu doanh nghiệp đó đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về định lượng cũng như định tính mà sở giao dịch chứng khoán đề ra.

Hoạt động niêm yết chứng khoán của doanh nghiệp công nghiệp được hiểu là hoạt động của các doanh nghiệp công nghiệp chuẩn bị các thủ tục nhằm đáp ứng các yêu cầu của sở giao dịch chứng khoán để đưa chứng khoán của doanh nghiệp có đủ tiêu chuẩn vào đăng ký và giao dịch tại thị trường giao dịch tập trung.

Mục tiêu của các doanh nghiệp trong việc niêm yết chứng khoán là hỗ trợ thị trường hoạt động ổn định, xây dựng lòng tin của công chúng đối với thị trường chứng khoán bằng cách lựa chọn các chứng khoán có chất lượng cao để giao dịch.

b. Phân loại niêm yết chứng khoán.

Niêm yết lần đầu: Niêm yết lần đầu là việc cho phép chứng khoán của tổ chức phát hành được đăng ký niêm yết giao dịch chứng khoán lần đầu tiên sau khi phát hành ra công chúng (IPO), khi tổ chức phát hành đó đáp ứng được các tiêu chuẩn về niêm yết [8].

Niêm yết bổ sung: Là quá trình chấp thuận của Sở giao dịch chứng khoán cho một công ty niêm yết được niêm yết các cổ phiếu mới phát hành với mục đích tăng vốn hay vì các mục đích khác như sáp nhập, trả cổ tức, thực hiện các trái quyền hoặc thực hiện chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu.

Thay đổi niêm yết: Là hoạt động phát sinh khi doanh nghiệp niêm yết thay đổi tên giao dịch, khối lượng, mệnh giá hoặc tổng giá trị cổ phiếu được niêm yết của mình.


Niêm yết lại: Là việc cho phép một công ty phát hành được tiếp tục niêm yết trở lại các chứng khoán trước đây đã bị huỷ bỏ niêm yết vì các lý do không đáp ứng được các tiêu chuẩn duy trì niêm yết.

Niêm yết cửa sau: Là những trường hợp một tổ chức niêm yết chính thức sáp nhập, liên kết hoặc tham gia vào hiệp hội với một tổ chức, nhóm không niêm yết và kết quả là các tổ chức không niêm yết đó lấy được quyền kiểm soát tổ chức niêm yết.

c. Tiêu chuẩn niêm yết.

Tiêu chuẩn niêm yết thông thường do sở giao dịch chứng khoán của mỗi quốc gia quy định, dựa trên cơ sở thực trạng của nền kinh tế. Tiêu chuẩn này bao gồm các điều kiện về tài chính của doanh nghiệp, chính sách khuyến khích hay hạn chế niêm yết… Tiêu chuẩn niêm yết thường được quy định dưới hai hình thức tiêu chuẩn định tính và tiêu chuẩn định lượng.

Thứ nhất, tiêu chuẩn định lượng.

Tiêu chuẩn đầu tiên quy định là thời gian hoạt động từ khi thành lập công ty: Công ty niêm yết phải có một nền tảng kinh doanh vững chắc và thời gian hoạt động liên tục trong một số năm nhất định tính đến thời điểm xin niêm yết. Thông thường đối với các thị trường truyền thống, công ty niêm yết phải có thời gian hoạt động tối thiểu 3-5 năm, hoặc cổ phiếu đã từng được giao dịch trên thị trường phi tập trung.

Tiêu chuẩn về quy mô và cơ cấu sở hữu cổ phần doanh nghiệp: Quy mô của một công ty niêm yết phải có đủ lớn để tạo nên tính thanh khoản tối thiểu cho chứng khoán của doanh nghiệp. Ví dụ, doanh nghiệp niêm yết tại thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam phải có vốn cổ phần tối thiểu 10 tỷ đồng, có cơ cấu vốn của các cổ đông bên ngoài công ty tối thiểu là 20% vốn cổ phần, cổ đông sáng lập phải nắm giữ tối thiểu 29% vốn cổ phần và phải nắm giữ trong vòng 3 năm không được phép bán ra kể từ ngày phát hành.

Tiêu chuẩn về lợi suất thu được từ vốn cổ phần: Xét đến mức sinh lời trên vốn đầu tư (cổ tức) phải cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng kỳ hạn một năm. Hoặc số năm hoạt động kinh doanh có lãi tính đến thời điểm xin niêm yết là 2-3 năm.

Xem tất cả 256 trang.

Ngày đăng: 01/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí