Hình Thức Hợp Tác Kinh Doanh Trên Cơ Sở Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh

động của liên doanh rất rộng, gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai.

- Đối với nước tiếp nhận đầu tư: Hình thức doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, giúp đa dạng hóa sản phẩm, đổi mới công nghệ, tạo ra thị trường mới và tạo cơ hội cho người lao động làm việc và học tập kinh nghiệm quản lý của nước ngoài. Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức này là mất nhiều thời gian thương thảo các vấn đề liên quan đến dự án đầu tư, thường xuất hiện mâu thuẫn trong quản lý điều hành doanh nghiệp; đối tác nước ngoài thường quan tâm đến lợi ích toàn cầu, vì vậy đôi lúc liên doanh phải chịu thua thiệt vì lợi ích ở nơi khác; thay đổi nhân sự ở công ty mẹ có ảnh hưởng tới tương lai phát triển của liên doanh.

- Đối với nhà đầu tư nước ngoài: Hình thức doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài giúp tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại; được đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh dễ thu lời, lĩnh vực bị cấm hoặc hạn chế đối với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; thâm nhập được những thị trường truyền thống của nước chủ nhà; không mất thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ; chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư. Tuy nhiên, nhược điểm là sự khác biệt về nhìn nhận chi phí đầu tư giữa hai bên đối tác; mất nhiều thời gian thương thảo mọi vấn đề liên quan đến dự án đầu tư, định giá tài sản góp vốn giải quyết việc làm cho người lao động của đối tác trong nước; không chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp, dễ bị mất cơ hội kinh doanh khó giải quyết khác biệt về tập quán, văn hóa.

3.2. Hình thức đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài

Hình thức đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư 100% số vốn của mình để thành lập công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Luật Doanh Nghiệp và pháp luật có liên quan.

Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là một hình thức doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt động đầu tư quốc tế. Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh

doanh có tư cách pháp nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư và nước sở tại. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tùy thuộc vào các điều kiện về môi trường kinh doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế, luật pháp, văn hóa, mức độ cạnh tranh,… Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân là một thực thể pháp lý độc lập, hoạt động theo luật pháp nước sở tại và được thành lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.

- Đối với nước tiếp nhận đầu tư: Hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài giúp Nhà nước thu được ngay tiền thuê đất, tiền thuế mặc dù doanh nghiệp bị lỗ; giải quyết được công ăn việc làm mà không cần bỏ vốn đầu tư; tập trung thu hút vốn và công nghệ của nước ngoài vào những lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu; tiếp cận được thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, hình thức này khiến cho nước tiếp nhận khó tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ nước ngoài để nâng cao trình độ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật ở các doanh nghiệp trong nước.

- Đối với nhà đầu tư nước ngoài: Hình thức này giúp chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp thực hiện được chiến lược toàn cầu của tập đoàn; triển khai nhanh dự án đầu tư; được quyền chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển chung của tập đoàn. Tuy nhiên, chủ đầu tư phải chịu toàn bộ rủi ro trong đầu tư; phải chi phí nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận thị trường mới; không xâm nhập được vào những lĩnh vực có nhiều lợi nhuận thị trường trong nước lớn, khó quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước nước sở tại.

3.3. Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở Hợp đồng hợp tác kinh doanh

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới.

Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được ký kết giữa đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định rõ việc thực hiện phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên. Đặc điểm là các bên ký kết Hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong quá trình kinh doanh các bên hợp doanh có thể

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp điện ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 3

thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực hiện Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phân chia kết quả kinh doanh: hình thức hợp doanh không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân chia kết quả kinh doanh chung theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thỏa thuận giữa các bên. Các bên hợp doanh là một thực thể kinh doanh hoạt động theo luật pháp nước sở tại chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại. Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên hợp doanh được ghi trong Hợp đồng hợp tác kinh doanh.

- Đối với nước tiếp nhận đầu tư: Hợp tác kinh doanh trên cơ sở Hợp đồng hợp tác kinh doanh giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ, tạo ra thị trường mới nhưng vẫn đảm bảo được an ninh quốc gia và nắm được quyền điều hành dự án. Nhưng, khó thu hút đầu tư dưới hình thức này, chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh vực dễ sinh lời.

- Đối với nhà đầu tư nước ngoài: Hình thức này giúp tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại vào được những lĩnh vực hạn chế đầu tư thâm nhập được những thị trường truyền thống của nước chủ nhà; không mất thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ; không bị tác động lớn do khác biệt về văn hóa; chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư. Nhưng, nước đầu tư không được trực tiếp quản lý điều hành dự án, quan hệ hợp tác với đối tác nước sở tại thiếu tính chắc chắn làm các nhà đầu tư e ngại.

3.4. Hình thức đầu tư theo Hợp đồng Xây dựng – Khai thác – Chuyển giao

(BOT), Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh (BTO), Hợp đồng Xây

dựng – Chuyển giao (BT)

BOT là một thuật ngữ để chỉ một mô hình hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhân để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng vốn dành riêng cho khu vực Nhà nước. BOT là viết tắt của „Build – Xây dựng, Operate – Khai thác, Transfer – Chuyển giao‟. Hình thức BOT là một trong các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài và chỉ được áp dụng trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng10. Hình thức đầu tư này có thể giải quyết


10 Cơ sở lý luận và thực tiễn tài trợ trong các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng của Việt Nam dưới hình thức BOT, Nguyễn Thị Thu Hằng, Lê Tuyển Cử, Nguyễn Thị Thu Trà, Vũ Cường, 2004, tr.20.

được sự mâu thuẫn giữa nhu cầu thiết yếu về cơ sở hạ tầng với sự thiếu vốn trầm trọng ở những quốc gia đang phát triển11.

Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới về hình thức BOT thì “Hình thức đầu tư BOT là hình thức nhà đầu tư tiến hành đầu tư xây dựng công trình, sau khi hoàn thành sẽ tiến hành kinh doanh khai thác trong một thời gian nhất định

đảm bảo thu hồi được vốn và có lợi nhuận hợp lý sau đó chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước”12.

Như vậy, lợi ích của nhà đầu tư nói chung là khoản lợi nhuận họ có thể nhận được từ việc khai thác dự án. Họ có thể nhận được một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.

Hiện nay ở Việt Nam, ngoài hình thức BOT chính thống còn tồn tại các dạng biến thể khác như:

Hợp đồng BTO (Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh): là Văn bản được ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư nước ngoài quyền kinh doanh khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.

Hợp đồng BT (Xây dựng – Chuyển giao): là Văn bản được ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cho phép nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để kinh doanh, khai thác nhằm thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.

Vốn để thực hiện dự án theo hình thức Hợp đồng BOT, BTO, BT là vốn của riêng nhà đầu tư nước ngoài, song cũng có thể vốn của nhà đầu tư nước ngoài cộng


11 To promote infrastructure construction of China by using BOT to raise domestic funds, January 15 1997, tr.3.

12 Cơ sở lý luận và thực tiễn tài trợ trong các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng của Việt Nam dưới hình thức BOT, Nguyễn Thị Thu Hằng, Lê Tuyển Cử, Nguyễn Thị Thu Trà, Vũ Cường, 2004, tr.18-19.

với vốn của Chính phủ Việt Nam. Quyền lợi và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài được quy định cụ thể trong Hợp đồng BOT, BTO, BO. Các Hợp đồng này có hiệu lực kể từ khi được cấp Giấy phép đầu tư.

- Đối với nước tiếp nhận đầu tư: Hình thức BOT thu hút được vốn đầu tư vào những dự án cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn đầu tư lớn, do đó giảm được sức ép cho ngân sách Nhà nước, đồng thời nhanh chóng có được công trình kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh giúp khơi dậy các nguồn lực trong nước và thu hút thêm FDI để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nước chủ nhà khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý và khó kiểm soát công trình. Mặt khác, Nhà nước phải chịu rủi ro ngoài khả năng kiểm soát của nhà đầu tư.

- Đối với nhà đầu tư nước ngoài: Khi sử dụng hình thức này thì hiệu quả vốn được đảm bảo; chủ động quản lý, điều hành và tự chủ kinh doanh lợi nhuận, không bị chia sẻ và được Nhà nước sở tại đảm bảo, tránh những rủi ro bất thường ngoài khả năng kiểm soát. Nhưng việc đàm phán và thực thi Hợp đồng BOT thường gặp nhiều khó khăn tốn kém nhiều thời gian và công sức.

3.5. Mua cổ phần hoặc góp vốn

Hình thức mua cổ phần hoặc góp vốn là hình thức đầu tư trong đó nhà đầu tư được quyền góp vốn, mua cổ phần của các công ty, chi nhánh tại Việt Nam, hình thành nên công ty cổ phần.

Công ty cổ phần (Joint Stock Company) là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân với số lượng tối đa không hạn chế, nhưng phải đáp ứng yêu cầu về số cổ đông tối thiểu. Đặc trưng của công ty cổ phần là nó có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng và các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Cơ cấu tổ chức: công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và giám đốc. Thông thường ở nhiều nước trên thế giới, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phiếu thường có quyền tham gia giám sát quản lý hoạt động của công ty cổ phần. Đại hội cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết là cơ quan quyết định cao

nhất của công ty cổ phần. Ở một số nước khác, công ty cổ phần hữu hạn có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo cách thành lập mới, cổ phần hóa doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt động, mua lại cổ phần của doanh nghiệp trong nước cổ phần hóa.

3.6. Hình thức đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con

Hình thức đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con (Holding company) là một trong những mô hình tổ chức quản lý được thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Holding company là một công ty sở hữu vốn trong một công ty khác ở mức đủ để kiểm soát hoạt động quản lý và điều hành công ty đó thông qua việc gây ảnh hưởng hoặc lựa chọn thành viên hội đồng quản trị. Holding company được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và chỉ giới hạn hoạt động của mình trong việc sở hữu vốn, quyết định chiến lược và giám sát hoạt động quản lý của các công ty con, các công ty con vẫn duy trì quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh của mình một cách độc lập, tạo ra rất nhiều thuận lợi:

- Cho phép các nhà đầu tư huy động vốn để triển khai nhiều dự án đầu tư khác nhau mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho họ điều phối hoạt động và hỗ trợ các công ty trực thuộc trong việc tiếp thị, tiêu thụ hàng hóa, điều tiết chi phí thu nhập và các nghiệp vụ tài chính.

- Quản lý các khoản vốn góp của mình trong công ty khác như một thể thống nhất và chịu trách nhiệm về việc ra quyết định và lập kế hoạch chiến lược điều phối các hoạt động và tài chính của cả nhóm công ty.

- Lập kế hoạch, chỉ đạo, kiểm soát các luồng lưu chuyển vốn trong danh mục đầu tư. Holding company có thể thực hiện cả hoạt động tài trợ đầu tư cho các công ty con và cung cấp dịch vụ tài chính nội bộ cho các công ty này.

- Cung cấp cho các công ty con các dịch vụ như kiểm toán nội bộ, quan hệ đối ngoại, phát triển thị trường, lập kế hoạch, nghiên cứu và phát triển (R&D),…

3.7. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài khác

Ngoài các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài nêu trên, nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư vào khu chế xuất, khu công nghiệp theo hình thức Hợp tác

kinh doanh trên cơ sở Hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.

Doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế được phép hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào khu chế xuất, khu công nghiệp hoặc thành lập riêng doanh nghiệp 100% vốn của mình.

Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, do Chính phủ Việt Nam thành lập hoặc cho phép thành lập.

Trong khu chế xuất có các doanh nghiệp chế xuất hoạt động. Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp đóng trong khu chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, được thành lập và hoạt động theo quy định của Chính phủ Việt Nam về doanh nghiệp chế xuất.

Khi hoạt động trong khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất được hưởng những ưu đãi nhất định, ví dụ được miễn thuế xuất nhập khẩu đối với việc xuất nhập khẩu hàng hóa với khách hàng nước ngoài.

Quan hệ trao đổi hàng hóa giữa các doanh nghiệp trong thị trường Việt Nam với các doanh nghiệp chế xuất được coi là quan hệ xuất nhập khẩu và phải tuân theo các quy định của pháp luật xuất nhập khẩu.

Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, do Chính phủ Việt Nam thành lập hoặc cho phép thành lập.

Doanh nghiệp khu công nghiệp là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong khu công nghiệp. Đó có thể là doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư Việt Nam.

4. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài

Luồng vốn FDI trên thế giới gia tăng trong những năm vừa qua đã có những tác động ngày càng rõ nét lên nền kinh tế toàn cầu. Tác động đó, trước hết từ những lợi ích mà các nhà đầu tư thu được khi mang vốn ra nước ngoài và sau đó là những lợi ích đối với quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư. Lý thuyết về lợi ích của đầu tư nước

ngoài của Mac Dougall đã chỉ ra: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa tạo ra thu nhập cho nhà đầu tư trong nước và ngoài nước”13. Khi đó, sản lượng của cả hai nước sẽ tăng lên làm cho tổng sản lượng của toàn thế giới cũng tăng lên. Chúng ta sẽ tiến hành xem xét những tác động tích cực của FDI đối với nền kinh tế của các nước xuất khẩu FDI và các quốc gia tiếp nhận vốn.

4.1. Tác động đối với các nước xuất khẩu FDI

- FDI giúp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới: Phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các nước về thực chất hoạt động như là chi nhánh của các công ty mẹ ở chính quốc. Việc xây dựng các nhà máy sản xuất, chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, phụ tùng của công ty mẹ ở nước ngoài, đồng thời còn là biện pháp thâm nhập thị trường hữu hiệu tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. Đặc biệt, thị trường tiêu thụ sản phẩm nội địa của những nước lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia,… có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với nguồn vốn FDI.

- FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao: Do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển sản xuất và mức sống, thu nhập,… giữa các nước nên đã tạo ra chênh lệch về điều kiện và giá cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Do đó, đầu tư ra nước ngoài cho phép lợi dụng các chênh lệch này để giảm chi phí về lao động. Vì thế, trong thời gian qua, các nước tư bản phát triển và những nước công nghiệp mới đã chuyển những ngành sử dụng nhiều lao động sang các nước đang phát triển để giảm chi phí sản xuất. Việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở các nước sở tại cũng giúp các chủ đầu tư giảm chi phí vận chuyển hàng hóa, tiết kiệm chi phí quảng cáo, tiếp thị,… Do chạy theo lợi nhuận độc quyền cao, các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ mặc nạn thất nghiệp ở các nước phát triển để đầu tư ở những nước có chi phí rẻ, lợi nhuận cao và như vậy tạo công việc làm cho nước nhận đầu tư.

- FDI giúp các chủ đầu tư tìm kiếm được các nguồn cung cấp nguyên, nhiên liệu ổn định: Mục tiêu của nhiều dự án đầu tư nước ngoài là tìm kiếm nguồn nguyên

13 Giáo trình đầu tư nước ngoài, TS. Vũ Chí Lộc, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997, tr.24.

Xem tất cả 116 trang.

Ngày đăng: 04/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí