được thiết lập còn đơn giản. Ngoài phiên họp toàn thể thì các hoạt động chủ yếu của QH giữa hai kỳ họp do Ban Thường vụ thực hiện. Như thế, có thể nói mặc dù các Ủy ban thường trực của QH chưa được thiết lập, song việc hình thành và hoạt động của các tiểu ban đã tạo lập nên những mầm mống ban đầu việc từng bước hình thành hệ thống các Ủy ban của QH nước ta sau này.
1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Hiến pháp năm 1959 được ban hành và thực hiện trong giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980. Đây cũng là giai đoạn nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống can thiệp Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và hàn gắn vết thương sau chiến tranh. Tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, của QH nói chung và hệ thống các Ủy ban của QH nói riêng cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc và được đặt trong bối cảnh thực hiện các nhiệm vụ đó. Do nhu cầu và bối cảnh thực tế của đất nước thời điểm đó, phạm vi khối lượng hoạt động của QH nói chung và các Ủy ban của QH nói riêng cũng không lớn. Chẳng hạn, trong nhiệm kỳ QH khóa II, Ủy ban dự án pháp luật đã thẩm tra 6 dự án luật, 9 dự án pháp lệnh; nhiệm kỳ QH khóa III là 1 dự án luật và 7 dự án pháp lệnh; khóa IV là 2 dự án luật và 2 dự án pháp lệnh. Khóa VI thẩm tra 7 dự án pháp lệnh, tham gia công tác soạn thảo các dự án luật, dự án pháp lệnh khác theo phân công của UBTVQH [93, tr.17-31].
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1959, Luật TCQH năm 1960 và việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của các Ủy ban của QH trong giai đoạn này, có thể nhận thấy hoạt động của các Ủy ban đã có những bước chuyển nhất định qua một số điểm đáng chú ý sau đây:
Thứ nhất, lần đầu tiên về mặt lịch sử lập hiến của Nhà nước ta, các Ủy ban với dáng dấp “thường trực” được thiết lập. So với giai đoạn trước đó, các ủy ban với vị trí, vai trò là các cơ quan tư vấn, tham mưu giúp QH và UBTVQH trong các lĩnh vực quan trọng, nhất là công tác xây dựng pháp luật; quyết định kế hoạch và ngân sách nhà nước bắt đầu được hình thành và vận hành trên thực tế, có những đóng góp nhất định vào hoạt động của QH. Theo quy định của Hiến pháp năm 1959 (Điều 57), QH thành lập Ủy ban dự án pháp luật, Ủy ban kế hoạch và ngân sách và những Ủy ban khác mà QH xét thấy cần thiết để giúp QH và UBTVQH. Luật TCQH năm 1960 sau đó đã quy định cụ thể về nhiệm vụ của hai Ủy ban này (Điều 35, Điều 36 Luật TCQH năm 1960); còn việc thành lập cũng như nhiệm vụ quyền hạn của “những ủy ban khác” không được đề cập trong Luật. Như thế, vai trò của những tiểu ban trong hoạt
động lập pháp của QH đã kết thúc, đồng thời mở ra vai trò mới với sự thành lập và hoạt động của các Ủy ban thường trực (chủ yếu lúc này là Ủy ban dự án pháp luật) trong hoạt động của QH nói chung.
Thứ hai, lần đầu tiên, thẩm tra đã trở thành một khâu trong hoạt động lập pháp của QH. Trong giai đoạn này, hoạt động của các Ủy ban chủ yếu dừng lại trong lĩnh vực lập pháp. Đây là lần đầu tiên về mặt pháp lý, việc thẩm tra được quy định chính thức trong luật và là một khâu bắt buộc trong quy trình lập pháp. Theo đó, Luật TCQH năm 1960 quy định Ủy ban dự án pháp luật thực hiện việc thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và những dự án khác về vấn đề pháp luật do QH hoặc UBTVQH giao (Điều 35); Ủy ban kế hoạch và ngân sách có nhiệm vụ thẩm tra dự án kế hoạch nhà nước, dự toán và quyết toán dự toán ngân sách nhà nước và những dự án khác về kế hoạch nhà nước và về ngân sách nhà nước (Điều 36).
Về thẩm quyền trình dự án luật, pháp lệnh: Luật TCQH năm 1960 cũng lần đầu tiên quy định thẩm quyền trình dự án luật, pháp lệnh của các ủy ban của QH. Theo đó, cùng với các chủ thể khác là Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, UBTVQH, Chủ tịch Đoàn kỳ họp QH, ĐBQH, Hội đồng Chính phủ, các Ủy ban của QH có quyền trình dự án luật và các dự án khác ra trước QH. Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước; Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBTVQH, Hội đồng Chính phủ, các Ủy ban có quyền trình dự án pháp lệnh và các dự án khác ra trước UBTVQH (Điều 15, Điều 28). Cùng với thẩm quyền trình dự án luật, pháp lệnh, Luật TCQH năm 1960 cũng quy định trách nhiệm “thảo ra dự án luật và dự án pháp lệnh” của Ủy ban dự án pháp luật trên cơ sở căn cứ vào quyết định của QH hoặc của UBTVQH (Điều 35).
Có thể bạn quan tâm!
- Đáp Ứng Một Cách Căn Bản Yêu Cầu Kinh Phí Cho Hoạt Động Chuyên Môn Của Hđdt, Các Ủy Ban; Thực Hiện Chế Độ Phụ Cấp Cho Tất Cả Các Thành Viên
- Hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - 23
- Hoạt Động Của Hđdt, Các Ủy Ban Trong Các Giai Đoạn Phát Triển Của Quốc Hội Và Thực Trạng Pháp Luật Về Hoạt Động Của Hđdt,
- Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Hoạt Động Hđdt, Các Ủy Ban Trong Lĩnh Vực Giám Sát
- Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Hoạt Động Thực Hiện Quyền Kiến Nghị Của Hđdt, Các Ủy Ban
- Hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - 28
Xem toàn bộ 240 trang tài liệu này.
Thứ ba, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của các Ủy ban trong hoạt động giám sát, trong việc thực hiện hoạt động kiến nghị chưa được Hiến pháp năm 1959 và các văn bản pháp luật khác ghi nhận một cách rành mạch. Tuy nhiên, Luật TCQH năm 1960 có quy định nhiệm vụ của Ủy ban dự án pháp luật trong việc “đề ra dự án và ý kiến về vấn đề pháp luật với QH hoặc UBTVQH” (Điều 35).
Thứ tư, về phương thức hoạt động, về mặt pháp lý, Luật TCQH năm 1960 quy định trong thời gian QH đang họp, nếu được sự đồng ý của QH và trong thời gian QH không họp, nếu được sự đồng ý của UBTVQH, thì Ủy ban có thể lập ra các tiểu ban giúp việc. Trong nhiệm kỳ QH khóa VI, Ủy ban dự án pháp luật đã tổ chức các đoàn công tác để khảo sát, nghiên cứu thực tế ở một số địa phương phục vụ công tác xây dựng pháp luật, thẩm tra các dự án; và các kết quả nghiên cứu này sau đó đã được đưa ra phiên họp toàn thể Ủy ban thảo luận, cho ý kiến [93, tr.32].
1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Các văn bản pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các Ủy ban c ủa QH giai đoạn này là Hiến pháp năm 1980, Luật TCQH và Hội đồng Nhà nước năm 1981, Quy chế xây dựng luật và pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 6/8/1988.
Hiến pháp năm 1980 quy định HĐDT có quyền nghiên cứu và kiến nghị với QH và Hội đồng Nhà nước về những vấn đề dân tộc; giúp QH và Hội đồng Nhà nước giám sát việc thi hành chính sách dân tộc (Điều 91). Về vị trí, vai trò, các Ủy ban của QH được xác định là cơ quan “thường trực” của QH. Nhiệm vụ của các Ủy ban thường trực là nghiên cứu, thẩm tra những dự án luật, dự án pháp lệnh, dự án khác hoặc những báo cáo; kiến nghị với QH và Hội đồng Nhà nước những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban; giúp QH và Hội đồng Nhà nước thực hiện quyền giám sát. Khi xét thấy cần thiết, QH và Hội đồng Nhà nước có thể thành lập các Ủy ban lâm thời để làm những nhiệm vụ nhất định (Điều 92). Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1980, Luật TCQH và Hội đồng Nhà nước năm 1981, Quy chế xây dựng luật và pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 6/8/1988...là những văn bản pháp luật chính yếu nhất tạo lập nên khuôn khổ pháp lý về hoạt động của HĐDT, Ủy ban của QH.
Thứ nhất, về hoạt động thẩm tra nói riêng và các hoạt động khác của HĐDT, Ủy ban trong lĩnh vực lập pháp.
Đến Quy chế xây dựng luật và pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 6/8/1988, phù hợp với tư duy kế hoạch hóa ở thời điểm đó, việc xây dựng luật, pháp lệnh của Nhà nước ta được thực hiện theo kế hoạch do Hội đồng Nhà nước quyết định (kế hoạch dài hạn 5 năm và kế hoạch hàng năm, tương tự như chương trình xây dựng pháp luật cả nhiệm kỳ QH và hàng năm hiện nay). Nhiệm vụ thẩm tra của HĐDT, UBPL, các Ủy ban thường trực khác của QH vì thế cũng được mở rộng ra cả việc thẩm tra đối với Kế hoạch xây dựng luật, pháp lệnh (được chuẩn bị từ ý kiến đề xuất của các bộ, ngành để trình Hội đồng Bộ trưởng xem xét, có sự tham gia ý kiến của TANDTC, VKSNDTC (Điều 8). Bên cạnh đó, trách nhiệm phối hợp thẩm tra của UBPL với các Ủy ban thường trực khác cũng đã được quy định thành nhiệm vụ cụ thể của UBPL (Điều 3 Điều lệ tổ chức và hoạt động của UBPL nhiệm kỳ QH khóa VII). Vai trò, trách nhiệm của các Ủy ban còn được thể hiện trong các công đoạn khác của quy trình lập pháp. Theo đó, trong việc lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, pháp lệnh, cơ quan chủ trì thẩm tra, UBPL và cơ quan trình dự án cùng VPQH và Hội đồng Nhà nước có trách nhiệm tập hợp, tổng hợp ý kiến nhân dân và chỉnh lý
dự án luật, pháp lệnh. Trong việc gửi xin ý kiến ĐBQH về dự án luật, pháp lệnh, trên cơ sở ý kiến đóng góp của các vị ĐBQH, Đoàn ĐBQH, cơ quan chủ trì thẩm tra, UBPL và cơ quan trình dự án có nhiệm vụ nghiên cứu tiếp thu các ý kiến đóng góp và dự kiến chỉnh lý dự án v.v...
Như vậy, cho đến Quy chế này, hoạt động thẩm tra của Ủy ban của QH cũng được chú ý hơn với sự gia tăng về số lượng các cơ quan thẩm tra (HĐDT, các Ủy ban thường trực của QH). Chức năng, nhiệm vụ của HĐDT, UBPL và các Ủy ban thường trực nói chung và trong hoạt động lập pháp của QH, hoạt động thẩm tra nói riêng đã được quy định tương đối rõ nét và bước đầu theo hướng toàn diện hơn. Các quy định của Quy chế này đã xác lập khuôn khổ pháp lý khá toàn diện về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của các Ủy ban trong hoạt động lập pháp của QH. So với giai đoạn trước đó thì rõ ràng đây là một bước tiến lớn về mặt lập pháp, có đóng góp rất lớn vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của QH với vị trí là các cơ quan tham mưu, tư vấn về chuyên môn cho QH trong các lĩnh vực cụ thể và qua đó, góp phần vào việc nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của QH. Bên cạnh đó, nếu phạm vi, lĩnh vực thẩm tra của HĐDT được quy định theo hướng gắn với các dự án luật, pháp lệnh, dự án khác có liên quan đến vấn đề dân tộc, thì Luật TCQH và Hội đồng Nhà nước năm 1981 lại không quy định rõ phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể đối với từng Ủy ban, mà chỉ quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của các Ủy ban thường trực là các Ủy ban này “thẩm tra các báo cáo, dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác mà QH và Hội đồng Nhà nước giao cho” (Điều 47). Mặc dù vậy, khuôn khổ pháp lý về hoạt động của HĐDT, các Ủy ban giai đoạn này đã tạo lập nền tảng quan trọng cho việc thực hiện hoạt động của HĐDT, Ủy ban trong lĩnh vực lập pháp của QH cho đến thời điểm hiện nay.
Thứ hai, về hoạt động giám sát, hoạt động của HĐDT, Ủy ban trong hoạt động giám sát chỉ dừng lại ở vai trò “giúp” QH và Hội đồng Nhà nước thực hiện quyền giám sát (Điều 92 Hiến pháp năm 1980, Điều 47 Luật TCQH và Hội đồng Nhà nước năm 1981). Quyền giám sát chưa trở thành một thẩm quyền độc lập của HĐDT, các Ủy ban. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là ở giai đoạn này, theo Điều 4 Điều lệ tổ chức và hoạt động của UBPL thì Ủy ban có quyền “tiến hành điều tra, xem xét tại chỗ những vấn đề cần thiết”; và “chất vấn Hội đồng bộ trưởng và các thành viên Hội đồng bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao”. Đây là một thực tế rất thú vị để so sánh, bởi vì trong khi Hiến pháp năm 1980 chỉ xác định các Ủy ban có vai trò “giúp” QH và Hội đồng Nhà nước thực hiện quyền giám sát, thì đây lại là những loại hình hoạt động đáng lưu ý mà trong bối cảnh hiện nay, khi giám sát đã trở thành một thẩm quyền hiến định của HĐDT, các Ủy ban,
song các cơ quan này lại không được xác định rõ có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tương tự.
Thứ ba, về hoạt động kiến nghị, trong Hiến pháp năm 1980, phạm vi đối tượng kiến nghị của HĐDT, Ủy ban chỉ giới hạn trong nội bộ QH, cụ thể là Hiến pháp năm 1980 quy định việc “kiến nghị với QH và Hội đồng Nhà nước” những vấn đề thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Điều 92 Hiến pháp năm 1980) mà không được kiến nghị với các cơ quan là đối tượng được giám sát. Quy định này tỏ ra bất hợp lý và từ thực tiễn hoạt động, UBPL nhiệm kỳ QH khóa VII (1981-1987) đã “đề nghị Hội đồng Nhà nước quy định rõ các Ủy ban có quyền trực tiếp đề xuất các kiến nghị của mình với các cơ quan được giám sát và các cơ quan này có trách nhiệm trả lời những kiến nghị đó của các Ủy ban trong thời hạn luật định” [93, tr.44].
Thứ tư, về phương thức hoạt động, ngoài các phiên họp để thẩm tra, trong giai đoạn này, việc tổ chức phiên họp liên tịch giữa bộ phận Thường trực các Ủy ban cũng đã được tiến hành trong những trường hợp cần có sự phối hợp, như trường hợp họp liên tịch giữa Thường trực UBPL và Thường trực Ủy ban đối ngoại [93, tr.41]. Bên cạnh đó, cũng tương tự như giai đoạn trước đó, trong giai đoạn này, hình thức tiểu ban vẫn được vận hành, nhưng về thẩm quyền, các Ủy ban không được trao thẩm quyền tự quyết định trong việc lập ra các tiểu ban để thực hiện nhiệm vụ; mà thẩm quyền này được trao cho Hội đồng Nhà nước. Chẳng hạn, đối với UBPL nhiệm kỳ QH khóa VII, ngày 26/2/1983, Hội đồng Nhà nước đã ra Nghị quyết số 301/NQ/HĐNN7 cho phép UBPL thành lập 4 tiểu ban giúp việc là Tiểu ban Luật hình sự, Tiểu ban Luật dân sự, Tiểu ban Luật kinh tế và văn hóa, Tiểu ban Luật tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước [93, tr.34]. Ở giai đoạn này, các đoàn công tác đến các địa phương để khảo sát thực tiễn, thu thập thông tin, tư liệu về các vấn đề cần quan tâm...được đẩy mạnh, gắn với việc phục vụ công tác thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh. Các đoàn công tác cũng được sử dụng trong hoạt động giám sát của Ủy ban [93, tr.41]; chưa phân tách hình thức đoàn giám sát, đoàn công tác như hiện nay.
Ở khía cạnh tổng thể, có thể nói khuôn khổ pháp lý làm nền tảng cho việc triển khai các hoạt động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của HĐDT, Ủy ban đến Hiến pháp năm 1980 và các văn bản pháp luật cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1980 về nội dung này đã ở mức độ khá bao quát, có bước tiến lớn so với giai đoạn trước đó.
1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến nay
Hiến pháp năm 1992 được ban hành, thay thế Hiến pháp năm 1980, đã thể hện rõ vị trí, vai trò là bản Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi mới đất nước, tạo nền tảng chính
trị-pháp lý quan trọng cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong giai đoạn vừa qua. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó có QH và HĐDT, các Ủy ban của QH đã có những bước đổi mới quan trọng. So với giai đoạn trước đó, hoạt động của HĐDT, Ủy ban của QH đã có những bước phát triển, gắn liền với quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của QH, của bộ máy Nhà nước ta giai đoạn này. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001), HĐDT ngoài nhiệm vụ nghiên cứu và kiến nghị với QH về những vấn đề dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số còn có những nhiệm vụ, quyền hạn khác như các Ủy ban của QH (Điều 94). Các Ủy ban của QH có nhiệm vụ: “Nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác, những báo cáo được QH hoặc UBTVQH giao; trình QH, UBTVQH ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị về những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban” (Điều 95 Hiến pháp 1992).
Đến Hiến pháp năm 2013, những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn làm nền tảng cho hoạt động của HĐDT, các Ủy ban cơ bản được kế thừa khuôn khổ pháp lý về hoạt động của HĐDT, các Ủy ban theo Hiến pháp năm 1992; đồng thời, đã có sự bổ sung, phát triển mới về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐDT, Ủy ban thông qua việc minh định trong Hiến pháp thẩm quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Tổng Kiểm toán Nhà nước và cá nhân hữu quan báo cáo, giải trình hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết (Điều 77).
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, QH đã thành lập và quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐDT, các Ủy ban. Giai đoạn này cũng ghi nhận sự mở rộng lớn nhất so với các nhiệm kỳ QH trước đó về cơ cấu tổ chức các cơ quan này; đồng thời, khuôn khổ pháp lý về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐDT, Ủy ban cũng đã có những đổi mới theo hướng tăng cường, mở rộng nhiều hơn so với giai đoạn trước đó. Luật TCQH 2014 vừa qua tiếp tục kế thừa và khẳng định xu thế này.
Như vậy, xét về cơ cấu tổ chức, thì từ giai đoạn 1946-1959, Hiến pháp năm 1946 và các văn bản pháp luật chưa có quy định việc thành lập các Ủy ban. Đến Hiến pháp năm 1959, lần đầu tiên việc thành lập các Ủy ban để giúp QH hoạt động đã được thực hiện. Với việc ban hành và thực hiện Hiến pháp năm 1980, 2 Hội đồng và 7 Ủy ban đã được thành lập trong cơ cấu tổ chức của QH. Sau khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành, cơ cấu tổ chức các cơ quan này đã có những chuyển biến, đã tăng lên thành 01 Hội đồng và 09 Ủy ban (kể từ năm 2007). Trong nhiệm kỳ QH khóa XIII hiện nay, QH thành lập HĐDT và 9 Ủy ban: Uỷ ban pháp luật; Uỷ ban tư
pháp; Uỷ ban kinh tế; Uỷ ban tài chính, ngân sách; Uỷ ban quốc phòng và an ninh; Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Uỷ ban về các vấn đề xã hội; Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường; Uỷ ban đối ngoại.
Từ quy định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động của HĐDT, Ủy ban có xu hướng ngày càng mở rộng hơn trong những nhiệm kỳ QH gần đây. Khuôn khổ pháp lý về hoạt động của HĐDT, Ủy ban trong việc thực hiện chức năng thẩm tra, giám sát, kiến nghị cũng như phương thức hoạt động của các cơ quan này tiếp tục có những điều chỉnh theo hướng ngày càng mở rộng, toàn diện hơn.
II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HĐDT, CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI HIỆN NAY
2.1. Thực trạng pháp luật hiện hành về hoạt động thẩm tra và các hoạt động khác của HĐDT, các Ủy ban trong lĩnh vực lập pháp
2.1.1. Về hoạt động thẩm tra
Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2001) quy định: HĐDT, các Ủy ban của QH có nhiệm vụ: “...nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác, những báo cáo được QH hoặc UBTVQH giao; trình QH, UBTVQH ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh...” (Điều 95). Cơ bản kế thừa quy định này, Hiến pháp năm 2013 nêu một cách ngắn gọn về hoạt động của Hội đồng, Ủy ban trong lĩnh vực lập pháp, đó là “thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án khác và báo cáo được QH hoặc UBTVQH giao” (khoản 2 Điều 76 Hiến pháp năm 2013; khoản 4 Điều 75 Hiến pháp năm 2013). Như thế, khi đề cập đến hoạt động của Hội đồng, Ủy ban của QH, thì hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, dự án khác trước khi trình QH, UBTVQH của Hội đồng, Ủy ban là một công đoạn mang tính bắt buộc trong quy trình lập pháp.
Nhìn chung trong giai đoạn này, khuôn khổ pháp lý về hoạt động của Hội đồng, Ủy ban đã có bước tiến theo hướng ngày càng có sự định danh các loại hoạt động một cách cụ thể hơn. Nếu so sánh với Hiến pháp năm 1980, trong lĩnh vực lập pháp, Hội đồng, Ủy ban theo Hiến pháp năm 1992 còn có thêm trách nhiệm thực hiện hoạt động “trình QH, UBTVQH ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh” (Điều 95 Hiến pháp); thật ra đây là một loại hoạt động mang tính thẩm tra và đến Hiến pháp năm 2013 đã lựa chọn cách quy định khái quát hơn và không còn tiếp tục giữ quy định mang tính cụ thể này. Trong nhiều công trình nghiên cứu, thẩm tra là một hoạt động được nhìn nhận dưới giác độ là một chức năng của Hội đồng, Ủy ban, cùng với chức năng giám sát, kiến nghị. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN ở nước ta, về lâu dài điều này cũng gợi ra yêu cầu phải nghiên cứu hiến định chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng, Ủy ban ở mức độ khái quát hơn.
Bên cạnh đó, đây cũng là giai đoạn việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng, Ủy ban trong lĩnh vực lập pháp lần đầu tiên được điều chỉnh một cách khá toàn diện bằng hình thức văn bản luật (Luật BHVBQPPL, được ban hành lần đầu tiên vào năm 1996, Luật BHVBQPPL 2008 và nay là Luật BHVBQPPL 2015), thay thế cho một văn bản dưới luật điều chỉnh các hoạt động này ở giai đoạn trước đó là Quy chế xây dựng luật và pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 6/8/1988. Toàn bộ các vấn đề về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng, Ủy ban trong hoạt động thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật, dự thảo nghị quyết của QH, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của UBTVQH cũng đã có bước hoàn thiện lớn. Nếu coi hoạt động thẩm tra là hoạt động trung tâm của Hội đồng, Ủy ban trong lĩnh vực lập pháp thì có thể nói hoạt động này đã được điều chỉnh một cách khá toàn diện trong Luật BHVBQPPL 2008. Dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình QH, UBTVQH thảo luận, cho ý kiến phải được HĐDT, Ủy ban hữu quan của QH thẩm tra. Nội dung thẩm tra, phương thức thẩm tra...của HĐDT, các Ủy ban của QH cũng đã được quy định cụ thể tại các điều 41, 42, 43, 44 Luật BHVBQPPL 2008). Luật BHVBQPPL 2015 vừa qua bên cạnh việc kế thừa cơ bản các quy định về HĐDT, các Ủy ban, cũng đã có những điều chỉnh nhất định về nhiệm vụ của các cơ quan này trong quy trình lập pháp.
Không chỉ được điều chỉnh trong Luật BHVBQPPL, các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng, Ủy ban trong lĩnh vực lập pháp còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật cụ thể khác với xu hướng ngày càng mở rộng hơn. Luật TCQH là văn bản có xu hướng quy định một cách khái quát, tổng thể nhất về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐDT, từng Ủy ban của QH trong các lĩnh vực. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐDT và từng Ủy ban được quy định khá cụ thể tại các điều của Luật TCQH năm 2001 (sửa đổi năm 2007) và hiện nay là Luật TCQH 2014 trên cơ sở có sự cố gắng cập nhật hóa các quy định mới trong Hiến pháp năm 2014, đồng thời, vẫn dựa trên yếu tố chuyên môn hóa các lĩnh vực hoạt động của Hội đồng, Ủy ban làm cơ sở cho việc xác lập trách nhiệm chủ trì thẩm tra, tham gia, phối hợp thẩm tra của các cơ quan này. Cụ thể: nhiệm vụ và quyền hạn của HĐDT (Điều 69); nhiệm vụ và quyền hạn của UBPL (Điều 70); nhiệm vụ và quyền hạn của UBTP (Điều 71); nhiệm vụ và quyền hạn của UBKT (Điều 72); nhiệm vụ và quyền hạn của UBTC-NS (Điều 73); nhiệm vụ và quyền hạn của UBQP-AN (Điều 74); nhiệm vụ và quyền hạn của UBVHGDTN,TN,NĐ (Điều 75); nhiệm vụ và quyền hạn của UBCVĐXH (Điều 76); nhiệm vụ và quyền hạn của UBKH-CN-MT (Điều 77); nhiệm vụ và quyền hạn của