KSNB và của các quá trình quản lý, KTNB đề xuất và tư vấn các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính; tính hiệu lực của hệ thống KSNB và tính kinh tế của các hoạt động trong đơn vị. Với vai trò đưa ra tư vấn, KTNB sẽ cung cấp các dịch vụ tư vấn trợ giúp một cách riêng biệt cho tất cả các cấp trong một đơn vị việc giám sát chung về BCTC, KSNB, QLRR, đồng thời cǜng có thể tư vấn sâu hơn về việc quản lý tài sản, các yêu cầu tuân thủ… đưa ra các khuyến nghị cần thiết để hoàn thiện các bộ phận có cơ hội phát triển hoặc có những khiếm khuyết cần khắc phục. Mặt khác, với kiến thức chuyên môn và kỹ năng của mình, KTNB có thể tham gia đào tạo cho các bộ phận và phòng, ban trong đơn vị về các mảng liên quan đến thủ tục KSNB và QLRR, BCTC, các quy định tuân thủ… góp phần tăng cường năng lực của nhân sự trong đơn vị và giúp cho các đơn vị thực hiện tốt chức năng của mình.
1.1.1.2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của kiểm toán nội bộ
Để thực hiện chức năng của mình là hỗ trợ nhà quản lý trong việc kiểm tra, khắc phục những rủi ro thì việc tổ chức và hoạt động KTNB phải đảm bảo những nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, Tính độc lập của KTNB
Theo nguyên tắc này, tổ chức và hoạt động của KTNB phải độc lập với đơn vị, bộ phận được kiểm toán, các KTVNB không bị những tác động hoặc mối quan hệ chi phối làm ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động kiểm toán. Bộ phận KTNB chỉ chịu sự chỉ đạo và chịu trách nhiệm trước người đứng đầu tổ chức. Trong khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán, đơn vị phải đảm bảo rằng kiểm toán nội bộ không chịu bất cứ sự can thiệp nào khi thực hiện việc báo cáo và đánh giá.
Thứ hai, Đạo đức kiểm toán
Đạo đức kiểm toán là yếu tố nền tảng khi thiết lập chức năng KTNB. Đó là những quy tắc liên quan đến hoạt động KTNB mà thể hiện là thái độ cư xử của KTV. KTVNB phải hiểu và thực hiện những quy tắc này như là một định hướng đúng đắn cho việc thực hiện công việc của họ. Cụ thể, các nguyên tắc đạo đức bao gồm:
Tính trung thực: Nguyên tắc này đòi hỏi những ý kiến KTVNB đưa ra đáng tin cậy và trung thực.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện quy trình kiểm toán nội bộ tại Tổng công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị (HUD) - 1
- Hoàn thiện quy trình kiểm toán nội bộ tại Tổng công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị (HUD) - 2
- Phương Án Ứng Phó Rủi Ro Và Kiểm Toán
- Giai Đoạn Lập Kế Hoạch Kiểm Toán Nội Bộ Trong Doanh Nghiệp
- Giai Đoạn Theo Dòi Thực Hiện Kiến Nghị Kiểm Toán Nội Bộ
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
Tính khách quan: Những đánh giá và kết luận của KTVNB không bị ảnh hưởng bởi lợi ích của họ và của những người khác.
Trình độ: KTVNB phải áp dụng những kiến thức về chuyên môn cǜng như kinh nghiệm cần có để thực hiện công việc của họ.
Thứ ba, Tuân thủ quy định pháp luật
KTNB là một bộ phận trong một tổ chức, phục vụ cho tổ chức đó, do vậy, KTNB ngoài việc tuân thủ pháp luật của Nhà nước còn phải tuân thủ các quy định trong tổ chức. Việc tuân thủ pháp luật và những quy định là yêu cầu bắt buộc cho sự tồn tại và hoạt động của bộ phận KTNB, đồng thời pháp luật và những quy định của tổ chức lại chính là phương tiện cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của KTNB.
1.1.2. Nội dung kiểm toán nội bộ
KTNB làm một loại hình kiểm toán đặc thù, với cơ chế hoạt động là hướng vào chính tổ chức và phục vụ cho tổ chức của mình. Do vậy, nội dung KTNB lại phụ thuộc vào mục tiêu của đơn vị, vào yêu cầu của nhà quản lý và đặc điểm hoạt động của đơn vị. Theo đối tượng và lĩnh vực kiểm toán, nội dung của KTNB được chia thành 3 lĩnh vực sau:
Một là Kiểm toán tài chính
Kiểm toán tài chính (hay kiểm toán BCTC) là kiểm tra và xác định tính kịp thời, đầy đủ, khách quan, trung thực và hợp lư của BCTC, đồng thời xem xét và đánh giá BCTC có được xây dựng phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán được thừa nhận hay không [6, tr.30]. Đây loại hình kiểm toán ra đời sớm nhất và mang đầy đủ chức năng của kiểm toán nói chung. Ban đầu, chức năng của kiểm toán tài chính chỉ là việc chứng thực các báo cáo này. Sau quá trình phát triển, chức năng này dần được nâng cao thành xác nhận độ tin cậy, trung thực của các thông tin trên báo cáo tài chính trên cơ sở các bằng chứng thu thập được thông qua việc thực hiện các quy trình, phương pháp và chuẩn mực kiểm toán.
Tuy nhiên, do những hạn chế về tính độc lập, khách quan của KTNB nên kết quả kiểm toán BCTC của các KTVNB ít được các đối tượng ngoài doanh nghiệp sử dụng, tin cậy như báo cáo của các KTV độc lập.
Hai là Kiểm toán tuân thủ
Kiểm toán tuân thủ là loại hình kiểm toán nhằm để xem xét đơn vị được kiểm toán có tuân thủ các quy định mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc cơ quan chức năng của Nhà nước hoặc cơ quan chuyên môn đề ra hay không” [6, tr.25].
Đối tượng của kiểm toán tuân thủ gồm: việc tuân thủ các chính sách, chế độ của Nhà nước; những quy định, quy trình, chuẩn mực được đề ra bởi các cơ quan chuyên môn hay chỉ đơn thuần là việc tuân thủ các quy chế được ban hành và áp dụng trong nội bộ đơn vị; chủ thể thực hiện kiểm toán có thể là các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan cấp trên hoặc chính trong nội bộ các đơn vị được kiểm toán. Loại hình kiểm toán này được thực hiện để phục vụ cho nhu cầu của bản thân đơn vị hoặc cơ quan quản lý cấp trên nên kết quả kiểm toán có giá trị rất cao đối với công tác quản trị doanh nghiệp.
Ba là Kiểm toán hoạt động
So với kiểm toán BCTC và kiểm toán tuân thủ, thì kiểm toán hoạt động mới được chú trọng trong những năm gần đây và được thực hiện nhiều bởi KTNB. Nếu như kiểm toán độc lập và kiểm toán Nhà nước chú trọng vào việc xác nhận và bày tỏ ý kiến đối với các BCTC và các hoạt động kiểm soát tài chính, thì KTNB chú trọng vào việc tăng cường hiệu năng của quản lý và hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Trong nhiều năm, kiểm toán hoạt động chỉ giới hạn ở việc kiểm soát tài chính sau đó phát triển theo hướng điều tra, xác minh, đánh giá đối với tất cả các hoạt động khác, cả các hoạt động phi tài chính.
Nhiệm vụ của kiểm toán hoạt động là KTV nhận xét, đánh giá về tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động trong đơn vị. Mục tiêu của kiểm toán hoạt động là hướng tới các hoạt động hoàn thiện hơn trong tương lai bằng cách quan tâm tới những việc đã xảy ra trong quá khứ, hiện tại và cả những khả năng có thể xảy ra. Đây là điểm khác biệt so với mục đích xác định tính trung thực, hợp lý của thông tin tài chính quá khứ trong kiểm toán báo cáo tài chính.
Nội dung của kiểm toán hoạt động rất phong phú và thường tập trung vào việc xác định tính hiệu lực và hiệu quả của các nội dung sau:
Kiểm tra đánh giá việc thực hiện mục tiêu hoạt động của bộ phận, đơn vị được kiểm toán: Mọi hoạt động của đơn vị đều hướng tới mục tiêu đã được xác định cụ thể trong các văn bản pháp quy. Hoạt động của đơn vị chỉ coi là hiệu lực, hiệu quả
khi thực hiện tốt các mục tiêu đã đặt ra. KTVNB có thể thực hiện kiểm toán hoạt động toàn diện, tức là đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu của các bộ phận trực thuộc cǜng như mục tiêu của đơn vị trên tất cả các mặt hoặc có thể đánh giá kết quả thực hiện một cuộc kiểm toán chuyên đề với mục tiêu cụ thể nào đó hay bộ phận nào đó của đơn vị.
Kiểm tra đánh giá hệ thống KSNB của bộ phận, đơn vị được kiểm toán: Kiểm toán hoạt động cần phải kiểm tra đánh giá hiệu lực, hiệu quả và tính kinh tế của hệ thống KSNB trong việc đảm bảo tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động trong từng bộ phận và toàn bộ đơn vị.
Kiểm tra đánh giá việc khai thác, huy động, phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực của đơn vị: Đây là nội dung quan trọng trong kiểm toán hoạt động đối với nội bộ đơn vị. Đặc biệt là trong các DN với vốn chủ sở hữu chủ yếu là vốn Nhà nước thì công tác đánh giá tình hình khai thác, huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực vật chất trong đơn vị thành viên có hiệu quả và kinh tế hay không là một trong những nhiệm vụ chính của KTNB.
Kiểm tra và đánh giá kết quả hoạt động của từng bộ phận, từng chương trình, dự án, giai đoạn công việc: Mỗi bộ phận, tổ chức đều có chức năng, mục tiêu riêng biệt trong việc kết hợp thực hiện mục tiêu chung của đơn vị. Kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của hoạt động trong từng bộ phận, chương trình, dự án phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và các hoạt động cụ thể của từng bộ phận, chương trình, dự án.
Kiểm tra, đánh giá ảnh hưởng, tác động của môi trường bên ngoài đến các hoạt động của đơn vị: Một số thay đổi của môi trường kinh tế, chính trị, xã hội sẽ tác động đến quá trình hoạt động của đơn vị. Do vậy kiểm toán hoạt động cần đánh giá về sự tác động của các nhân tố môi trường đến đơn vị để từ đó có những quyết định phù hợp sao cho đơn vị hoạt động vẫn hiệu quả.
Mặc dù ra đời muộn hơn so với kiểm toán báo cáo tài chính, nhưng do lợi ích của nó, nên nhiều quốc gia ngày càng quan tâm đến kiểm toán hoạt động, không chỉ riêng trong khu vực nhà nước mà cả ở khu vực kinh tế tư nhân. Ở Việt Nam hiện nay, kiểm toán hoạt động đã được quan tâm nhưng vẫn chưa thực sự được chú trọng, trong khi đó, với những gì đã và đang xảy ra cho thấy tình trạng lãng phí hay
thất thoát các nguồn lực sử dụng cho tất cả các hoạt động của nền kinh tế còn rất phổ biến. Theo xu thế chung, tất yếu chúng ta phải thực hiện kiểm toán hoạt động để hạn chế bớt tình trạng đó.
Tóm lại, trong 3 nội dung kiểm toán là kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động thì kiểm toán hoạt động là nội dung ưu tiên trong KTNB, tiếp theo là kiểm toán tuân thủ. Còn kiểm toán BCTC ít được thực hiện vì theo yêu cầu của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, trước khi phát hành chính thức BCTC cần phải có xác nhận của kiểm toán độc lập nên kiểm toán BCTC bao giờ cǜng do kiểm toán độc lập thực hiện.
1.1.3. Phương pháp tiếp cận và phương pháp kỹ thuật kiểm toán trong kiểm toán nội bộ
1.1.3.1. Phương pháp tiếp cận kiểm toán nội bộ
Phương pháp tiếp cận kiểm toán là đường đi định hướng cho việc thực hiện quy trình kiểm toán của KTV. Đường đi đúng sẽ giúp KTV tiết kiệm thời gian và chi phí kiểm toán, do đó việc xác định phương pháp tiếp cận phù hợp là điều kiện quan trọng để đảm bảo hoạt động KTNB hiệu quả. Căn cứ vào quá trình phát triển có thể chưa các phương pháp tiếp cận như sau:
+ Phương pháp tiếp cận tuân thủ/truyền thống: phương pháp tiếp cận truyền thống thường đi sâu vào tiếp cận chi tiết, nội dung chú trọng vào hoạt động tài chính, chủ yếu mang tính tuân thủ và bao gồm việc rà soát một khối lượng lớn các giao dịch. Phương pháp này tập trung vào tìm hiểu các quy định quy trình có được tuân thủ hay không, do đó không phù hợp với môi trường nhiều biến động và thách thức như hiện nay.
+ Phương pháp tiếp cận hệ thống: Cách tiếp cận này nhằm đánh giá hệ thống và quy trình, xem xét các hoạt động xuyên suốt tổ chức để thấy được sự mâu thuẫn, yếu kém của nó. Từ đó tập trung các phương pháp, kỹ thuật kiểm toán vào những yếu kém để phát hiện những sai phạm có khả năng tồn tại.
+ Phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro: Trong KTNB, phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên rủi ro là phương pháp được đánh giá mang lại hiệu quả cao cho cuộc KTNB trong DN. Viện KTNB toàn cầu IIA định nghĩa KTNB dựa trên rủi ro (Risk Based Internal Audit - RBIA) như một phương pháp liên kết KTNB với
khung QTRR tổng thể của tổ chức. Mặc dù trách nhiệm nhận diện và QTRR thuộc về ban quản trị của DN nhưng một trong những vai trò cốt lòi của KTNB là cung cấp một sự đảm bảo về quy trĞnh QTRR cho đơn vị. RBIA cho phép KTNB thực hiện chức năng đó một cách hiệu quả. Thông qua RBIA, KTNB cung cấp sự đảm bảo cho người quản lý rằng các quy trình QTRR đang QTRR một cách hiệu quả trong mối liên hệ với mức độ rủi ro mong muốn của tổ chức [7].
RBIA được đánh giá là một trong những phương pháp ưu việt trong KTNB cho đến thời điểm hiện tại. Mặc dù việc áp dụng phương pháp này còn tồn tại những thách thức nhất định cho bộ phận kiểm toán như: khó quản lý hơn phương pháp tiếp cận kiểm toán truyền thống, khó khăn trong việc theo dòi tiến độ so với kế hoạch trong điều kiện thay đổi thường xuyên. Tuy nhiên, những lợi ích mà phương pháp này mang lại cho đơn vị lại vô cùng lớn. Bằng cách thực hiện phương pháp kiểm toán dựa trên rủi ro, KTNB có thể kết luận rằng: (1) Các rủi ro đã được xác định, đánh giá và có phương án đối với rủi ro xung quanh mức độ rủi ro mong muốn hay chưa (Risk appetite - Rủi ro mong muốn là mức độ rủi ro mà đơn vị chấp nhận để theo đuổi mục tiêu của mình); (2) Các phương án ứng phó với rủi ro có hiệu quả trong phạm vị rủi ro mong muốn hay chưa? (3) Trường hợp rủi ro còn lại không phù hợp với rủi ro mong muốn, biện pháp quản trị đang được thực hiện để khắc phục?
(4) Các quy trình QTRR, bao gồm cả hiệu quả của các phương án ứng phó và việc hoàn thành các hành động, đang được quản lý theo dòi để đảm bảo tiếp tục hoạt động hiệu quả (5) Rủi ro, phương án khắc phục và các hành động đang được phân loại và báo cáo đúng cách. Theo đó nó cho phép KTNB cung cấp cho nhà quản trị sự đảm bảo trên ba lĩnh vực: (1) Quy trình quản lý rủi ro, cả về thiết kế và mức độ hoạt động hiệu quả của chúng có phù hợp hay không; (2) Việc quản trị rủi ro, đặc biệt những rủi ro được phân loại là rủi ro chính, bao gồm cả hiệu quả của các biện pháp kiểm soát và các phương án ứng phó với những rủi ro này; (3) Báo cáo và phân loại rủi ro đầy đủ, chính xác và phù hợp.
Sơ đồ 1.1: Chức năng đảm bảo của RIBA
(Nguồn: [15])
Sự khác biệt của phương pháp này so với các phương pháp tiếp cận kiểm toán truyền thống khác ở chỗ RIBA được định hướng bởi các mục tiêu và rủi ro của DN, không phải của KTNB. Điều này có nghĩa là rủi ro của DN sẽ xác định vị trí và thời điểm KTNB diễn ra. Không có sự riêng biệt về rủi ro của DN và rủi ro của KTNB xác định. Do đặc điểm này mà phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên rủi ro được sử dụng ở các cuộc kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ và cả kiểm toán hoạt động (KTHĐ). Trong KTHĐ, phương pháp tiếp cận kiểm toán này sẽ chỉ ra những rủi ro tiềm ẩn trong các bộ phận của DN, việc đánh giá rủi ro (ĐGRR) cho phép KTV biết được những chu trình bộ phận tồn tại rủi ro trọng yếu, ảnh hưởng đến khả năng đạt được mục tiêu của bộ phận và của toàn DN. Trong khi đó, KTHĐ là kiểm toán tính 3Es, trong đó có tiêu chí về khả năng hoàn thành mục tiêu đã đề ra, do vậy phương pháp tiếp cận này được coi là phù hợp khi thực hiện KTHĐ [15].
Phương pháp tiếp cận kiểm toán theo định hướng rủi ro xuất phát từ việc xác định, đánh giá các rủi ro của tổ chức để xây dựng kế hoạch kiểm toán và lựa chọn các thủ tục kiểm toán nhằm đưa ra sự đảm bảo cho ban lãnh đạo về tính hiệu quả và tính hiệu lực của các quy trình QLRR của tổ chức. Trong hoạt động SXKD, các DN thường phải đối mặt với nhiều loại rủi ro, những rủi ro này có thể phát sinh do bản thân doanh nghiệp hay từ môi trường kinh tế, chính trị, xã hội bên ngoài. Do đó, các KTVNB khi áp dụng phương pháp tiếp cận kiểm toán trên cơ sở định hướng rủi ro cần phải có hiểu biết sâu sắc về các mục tiêu và các rủi ro mà DN phải đối mặt; đồng
thời phải thiết lập được tương đối đầy đủ hồ sơ các rủi ro, trong đó có đánh giá về khả năng và mức ảnh hưởng của các loại rủi ro cǜng như biện pháp xử lý các rủi ro đó.
Khi tổ chức vận dụng phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên rủi ro sẽ định hướng cho bộ phận KTNB xác định được những giai đoạn thực hiện, các bước công việc cụ thể trong mỗi giai đoạn nhằm mục đích tổ chức thực hiện xuyên suốt và thống nhất. Quy trình vận dụng phương pháp tiếp cận KTNB dựa trên rủi ro trong kiểm toán bao gồm 03 giai đoạn sau: (1) Đánh giá mức độ QTRR, (2) Lập kế hoạch kiểm toán định kǶ, (3) Thực hiện nhiệm vụ kiểm toán riêng biệt.
Giai đoạn 1: Đánh giá mức độ QTRR. KTVNB cần nắm được tổng quan về phạm vi mà ban quản lý xác định, đánh giá, quản lý và giám sát rủi ro. Điều này cung cấp độ tin cậy của hệ thống đăng ký rủi ro phục vụ cho mục đích lập kế hoạch kiểm toán.
Mức độ hiểu biết về rủi ro và thực hiện QTRR tại đơn vị được gọi là “Mức độ QRTT”. KTV đánh giá mức độ QTRR tại công ty với mục đích xác định chính xác mức độ hiểu biết của công ty về các rủi ro ảnh hưởng, quá trình thực hiện QTRR tại công ty, báo cáo với nhà quản trị về quá trình đánh giá từ đó lựa chọn chiến lược kiểm toán phù hợp.
Để đạt được các mục tiêu này, KTNB cần phải thực hiện các bước công việc như sau: (1) Thảo luận với nhà quản trị và các cấp quản lý về rủi ro, (2) Thu thập các tài liệu liên quan đến QTRR, (3) Kết luận về mức độ QTRR tại DN, (4) Báo cáo kết quả đánh giá cho nhà quản trị, (5) Làm việc với ban quản lý để xác định nội dung cần thực hiện từ kết quả đánh giá và (6) Xác định chiến lược kiểm toán cần thiết. Thực chất bước công việc này tương đương với việc KTNB xác định điều kiện phù hợp nhất cho DN để áp dụng phương pháp tiếp cận kiểm toán dựa trên rủi ro cǜng như xác định nhiệm vụ kiểm toán tương ứng:
Nếu DN đang xây dựng mức QTRR ở mức 1 hoặc 2 (1 phần của mức 3), đồng nghĩa với chức năng QTRR chưa hoàn thiện cả về tổ chức và thực hiện. KTNB lúc này sẽ cung cấp nhiệm vụ tư vấn về khung QTRR của DN bao gồm cả về tổ chức, đánh giá rủi ro, tư vấn xây dựng hệ thống đăng ký rủi ro, tư vấn xây dựng mức độ rủi ro mong muốn nhằm hoàn thiện chức năng QTRR trong DN. Ngược lại, KTNB sẽ cung cấp chức năng đảm bảo cho khung QTRR của DN trong trường hợp DN đã