ấy làm Hiệp Chính Nương. Từ đó về sau, xa gần cầu đảo vẫn hay có linh ứng. Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu sắc phong là Hiệp Chính Hựu Thiện (6) Phu Nhân. Sang năm thứ 4, còn gia 2 chữ Trinh Liệt. Niên hiệu Hưng Long 21, lại phong thêm 2 chữ Chân Mãnh. Đến nay vẫn còn phụng sự, càng thấy linh ứng nữa đấy./ CHÚ DẪN: 1.Tên Chiêm Thành chỉ mới thấy sách vở đề cập từ đầu đời nhà Lý, mà tên cũ là Hồ Tôn và Lâm Ấp. Thuở ấy cương thổ nó trải dài từ Hoành Sơn và Phan Thiết ngày nay. Tục gọi là Chàm hay Hời. Vua Chàm lúc ấy là Sạ Đẩu, sử Chàm gọi là Simhavarman II. Sạ Đẩu đã xin Trung Quốc phong vương vào năm 1042, rồi năm sau lại dẫn quân lên cướp phá miền duyên hải Đại Cồ Việt. 2. Sông ở tỉnh Quảng Bình song chưa rõ là sông nào. Các sử chép là sông Ngũ Hồ càng không rõ là ở đâu. 3. Các sử cũ đều nói: tại Ngũ Bồ, quân Chiêm đại bại, tướng Chiêm là Quách Gia Di chém quốc vương là Sạ Đẩu, đem đầu sang ta xin hàng. 4. Lý Nhân: ở Phủ Lí, tỉnh Hà Nam, nay gọi là Sông Lập chảy ngang từ Sông Hồng qua Sông Đáy. 5. Tuyền Đài: chỉ phần mộ. Đó là đền đài cất ở Cửu Tuyền hay Huỳnh Tuyền. 6. Có sách chép là Hộ Thiên là sai. (Theo sách Việt điện u linh tập lục toàn biên. Phiên dịch: Ngọc Hồ, Tân chú: Nhất Tâm. Sống mới xuất bản, Sài gòn 1974, tr.74-77) |
Có thể bạn quan tâm!
- Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV - 20
- Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV - 21
- Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV - 22
Xem toàn bộ 190 trang tài liệu này.
TRUYỆN MỴ Ê TRINH LIỆT PHU NHÂN | Lĩnh Nam chích quái | Phu nhân vốn người nước Chiêm Thành, không có họ, tên là Mỵ Ê, vợ vua Chiêm Thành là Sạ Đẩu. Thời vua Lí Thái Tông, Sạ Đẩu thất lễ phiên thần, vua thân hành nam chinh, Sạ Đẩu đem binh dàn ở sông Bố chính mà chờ; sau rồi bị Vương giết, phu nhân Mỵ Ê bị bắt; đến sông Hoàng giang, phu nhân nghe Trung sứ phụng mệnh đòi đến hầu thuyền ngự; phu nhân phẫn uất vô cùng, lấy tấm chiên trắng tự quấn mình rồi nhảy xuống sông mà chết; mỗi khi sương sớm đêm trăng thường có những tiếng khóc ai oán, người trong nước nghe thấy mới lập đền miếu mà phụng tự. Sau khi vua đi chơi sông Lý Nhân, ngồi trong thuyền rồng, thấy đền miếu ở bên sông, lấy làm lạ mới hỏi tả hữu. Tả hữu thưa rằng: - Đó là đền Mỵ Ê phu nhân Vua cảm động mà rằng: - Quả có trinh liệt, thế nào cũng báo trẫm Đêm ấy đến canh ba, vua mộng thấy một người đàn bà bận y phục Chiêm Thành, lạy hai lạy mà khóc rằng: - Thiếp có nghe đạo người đàn bà là một mực theo chồng, sống cùng giường, thác cùng huyệt, thủ tiết không ô nhục, huống chi Sạ Đẩu tuy không thể tranh tiên cùng bệ hạ nhưng khí khái nam nhi cũng đã đắc ý một phương, thiếp vẫn đội sủng huệ; Sạ Đẩu vì lỗi đạo, Thượng Đế giáng trách, mượn tay bệ hạ để đến bây giờ quốc phá thân vong, lòng thiếp ngày đêm không lo việc đồb báo; một buổi sáng, may nhờ bệ hạ sai Trung sứ đưa thiếp xuống tuyền đài, thiếp rất cảm ơn chứ nào có thuật gì mà xưng là linh, nói thêm nhàm tai bệ hạ. |
Nói đoạn bỗng bay lên trời mà đi. Vua kinh hãi tỉnh dậy, sai Thị thần đem rượu, giết sinh vật đến tế, phong làm Thân Chính Phu Nhân. Qua đến niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, nhà Trần gia phong là Tá Lý Phu Nhân, đến năm Trùng Hưng thứ tư, gia phong hai chữ Trinh Liệt, đến năm Hưng Long thứ hai mươi mốt, gia phong hai chữ Trực Mãnh để biểu dương cái tiết đoan chính của phu nhân. (Theo sách Lĩnh Nam chích quái, bản dịch của Lê Hữu Mục. Khai Trí xuất bản, Sài Gòn 1960, tr115-116) |
PHỤ LỤC 4: Những bài thơ vịnh Mỵ Ê trên Tạp chí Nam Phong
TÊN BÀI THƠ | TÁC GIẢ | SỐ, TRANG | PHẦN THƠ | |
01 | MỴ Ê | Vân Đình Trần Mai Khôi | Số 7; tr.38 | Nước tan nhà vỡ lại còn chi? Nghĩ thế nên cô có tiếc gì? Phật- thệ đã xong niềm nguyện ước Tây- thiên thôi hát điệu hồ hề Song châu một dải đôi hàng lệ, Bóng nguyệt năm canh mấy giọt tì Tiết sạch chong chong không chút đục Đệm cừu linh hiển đến ngày ni. |
02 | VỊNH MỴ Ê | Hữu Tô Phạm Xuân Nùng | Số 17; tr.297 | Mạnh bạc chăn đào dải nước xanh, Nước xanh lai láng biết bao tình Tấm thân đã chót loài hèn yếu, Muôn thảm gì hơn buổi chiến tranh Một cuộc tang thương thôi vận nước, Trăm năm tiết nghĩa cũng lòng mình Đoái xem thiên hạ bao thần thiếp, Càng lúc càng suy kiếm lợi danh. |
03 | BÀ MỴ Ê | Đạm Phương nữ sĩ | Số 51, tr.261 | Ơn vua nợ nước trả cho xong, Dám tiếc làm chi mảnh má hồng Sau trước vẫn cam thề sống thác, Mất còn nỡ để thẹn non sông Mây sầu lớp lớp bay về Bắc, Sông thảm rùng rùng cuộn hướng Đông Đợi phải chiếu rồng ban triệu đến, Đã đành trọn tiết với vương công. |
04 | NÀNG MỴ Ê | Bùi Hữu Yên | Số 114, tr.180 | Kẻ khuất người còn giọt lệ rơi, Thôi thì cũng một thác cho rồi, Tấm thân thanh bạch dòng sông cuốn, Tấc dạ trung trinh bóng nguyệt soi Phật thệ gió cồn mây ảm đạm, Châu giang sóng vỗ nước chơi vơi Nghìn năm sử sách lưu truyền mãi, Để khách quần thoa thử ngắm coi. |